Hiển thị các bài đăng có nhãn Tap van. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tap van. Hiển thị tất cả bài đăng

9 thg 7, 2010

I'm Vietnamese!


I am Vietnamese!


I am a Vietnamese, born in the heart of my ancestors’ homeland
.
My country is tiny by a vast sea, fortified with great mountains and deep rivers, and adorned with natural beauty.

My people are good-natured but courageous, persevering and valiant. We value noble sentiments and human kindness.

I love my country. I love my people. My love is infinite, unlimited, sacred and lofty because this is my homeland by birth, and my people have a sense of defending our country.

I live on the land my ancestors have lived, I breathe the air my ancestors have breathed; the traces of their spirits hover over mountains and hills, rivers and creeks, plants and blooms around us.


History, fourth grade - 1965

"Vietnamese smiles"
Translated by Ly Lan
Photo by: divietnam.org

20 thg 2, 2009

Qua tang am nhac


Quà tặng âm nhạc
tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư

Hết hy vọng. Không mong gì lấy giấc ngủ vùi để chạy trốn cô đơn và nhàm chán trên chuyến đi dài. Không mong được chợp mắt, khi anh tài xế liên tục mở nhạc, mở cải lương, hát mòn hát mỏi mà chưa tới bến cuối, anh dò mấy cái đài phát thanh, cho nó nói ra rả chuyện trồng đậu nuôi bò, vốn không ăn nhập gì với nghề của anh, như thể chỉ để tìm cái cảm giác có tiếng-nói-của-người quanh mình. Rồi vào cái lúc những mũi khoan của âm thanh bất lực trước đôi mắt ríu lại, thiu thiu thì radio phát chương trình quà tặng âm nhạc.

Hết hy vọng. Giấc ngủ (đáng ra phải có) bị đẩy ra xa vì những cuộc gọi tới một tổng đài nào đó trong radio, yêu cầu một bài hát nào đó, gởi tặng cho mấy người nào đó, kèm theo những lời nhắn, lời chúc tốt lành. Đoạn phát thanh tương tác thường là vầy:
- Em chào chị Đài
- Vâng, xin chào bạn.
- Dạ, em là Xíu, em xin yêu cầu bài hát “Tình quay gót” do ca sỹ Đang Nằm trình bày. Dạ, bài hát này em gởi tặng thím Tư và bà ngoại của em, tặng mấy bạn Đậu, Cà, Súng, Sen ở Mị Cà Tha với lời nhắn, dù xa cách, tụi mình vẫn là bạn mãi mãi nghen. Chúc chị Đài một buổi chiều làm việc vui vẻ.
- Vâng, cảm ơn bạn, sau đây mời quý thính giả nghe bài hát…

Giấc ngủ vốn là thứ nhạy cảm, nó phì cười khi nghe lời nguyện gắn bó bằng bài hát có cái tên phũ phàng, “tình quay gót”, về cái sự đồng kính gởi hết sức lạ lùng giữa thím Tư và bà ngoại, mà không biết bà ngoại còn trẻ hay răng đã rụng hết rồi, bà ngoại biết làm gì với cái tình quay gót này. Nào chỉ có vậy, suốt chương trình, là những lời nhắn mang nhiều sắc thái khác nhau, tình cảm như “em vẫn yêu anh” với bài hát “Em đi bỏ mặc con đường” (?!); thắm thiết như “cảm ơn anh đi cùng và che chở cho mẹ con em” với bài hát “Hẩm hiu một mình”(?!); dè dặt như “không biết em còn nhớ tôi không?” với bài hát “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”(?!); hồn nhiên như “mong được làm quen với các bạn yêu nhạc gần xa, các bạn có cùng sở thích nghe nhạc buồn, yêu màu tím về số điện thoại 09xxxx”, ngay sau đó radio vang lên đoạn nhạc dạo “Mắt nai cha cha cha”(?!).

Và âm thanh khoan xoáy vào giấc ngủ là những tiếng nói xao động. Ai đó líu ríu, ai đó lúng búng, lí nhí, ai đó nói một hơi dài xong thở cái khì, ai đó nhát gừng, bối rối, ai đó hồn hậu guộng, chên, chung (Chú thích: ruộng, trên, Trung). Những giọng nói đôi lúc gần gủi, thật đến nỗi như nghe được nhịp tim người đập loạn khi nhắn lời yêu thương. Chỉ cảm thấy yêu ai đó thôi, đã run rẩy lắm rồi, đằng này bày tỏ yêu thương bằng lời, trước hàng vạn người nghe, chắc xao xuyến không thể tả. Xao xuyến không tan.

Và loang ra cả giấc ngủ của người khác. Nhắm mắt, mà thấy lướt qua những cuộc đời. Nhắm mắt, mà trong trí thấy người ta đang háo hức mở những món quà. Chúng không được bọc trong giấy kiếng bóng loáng, đính nơ hồng, không được lựa chọn từ tủ kính rực đèn, quà rẻ tiền và hồn nhiên đến nỗi một phần của thế giới sững sờ, trời ơi, thời buổi này người ta còn xí xớn tặng bài ca. Một phần của thế giới chỉ cần bỏ ra vài ngàn, là có thể mua cái đĩa nhạc (in sang lậu) toàn những bài mình thích, mang về nhà nghe sướng lổ tai. Chẳng thể gởi lời yêu cầu tặng bạn bè bài hát nào đó trên radio, bởi bạn cũng rời xa cái phương tiện giải trí cũ kỹ ấy lâu rồi, bạn đã có những thông tin, những trò vui khác, hiện đại hơn, phong phú hơn. Một phần của thế giới nghe một mình. Sướng một mình. Lâu lâu cũng gởi cho bạn bè vài file nhạc đính kèm qua email. Bạn cằn nhằn, tải về lâu lắc quá. Bài hát rốt cuộc ở lại với từng người, vang trong bốn bức tường, chia sẻ nhợt nhạt. Chúng hay, và sang trọng. Nhưng chúng có một cuộc đời buồn tẻ.

Nhưng cái bài hát làm cho giấc ngủ tan tác buổi xế chiều nay đã có một khoảnh khắc sống dù nó cực kỳ sến, bình dân, “em đi lấy chồng, về nơi xứ xa…”. Bài hát không chỉ được nghe như một bài hát, vì nó được yêu cầu bởi người thanh niên nào đó tên Phi với lời nhắn “Anh đang ở Vĩnh Thuận. Chỗ này buồn lắm. Anh nhớ em thích bài ca này. Anh… anh chúc em hạnh phúc bên chồng…”. Câu cuối cùng nghe tiếng được tiếng mất, vì anh nghẹn ngào, vì gió trên đồng phụt phù, hay tiếng bầy vịt đang rộ lên? Không biết nữa, nhưng cái cảm giác hoang vắng và hiu hắt dâng lên trong giọng nói, trong những âm thanh nền. Người con gái đó, giờ này đang bửa củi, nấu cơm chiều, hay đang dỗ con? hay cô đang ở một thành phố nào đó cạo rửa những lớp phèn trên mười móng chân mình? Cô có ở bên radio để nghe lại bài hát cũ? Họ có hẹn hò có dặn dò chờ đợi nhau trên sóng mỗi tuần không? Cô gái ấy còn thích bài hát này?

Tự dưng ai đó muốn vào vai cô gái gọi về chương trình “quà tặng…”, để nói cô đang vui vẻ, và anh chàng kia hãy quên cô đi. Sống đi. Sống mà không ngó lại ký ức nữa. Thật ra chỉ cần cất tiếng, giọng nói xa lạ đã tự nói lên một điều chua xót, tất cả đã khác rồi. Không ai còn ở chỗ cũ nữa, sao anh không chịu đi?

Điện thoại đã ở sẵn trong túi. Gọi rất dễ dàng. Nhưng để biết trò mạo danh kia là nhân danh sự yêu thương con người hay tàn nhẫn với con người, là một chuyện nghiêm túc hay trò đùa vớ vẩn, thì khó.

* minh họa: www.vnntu.com

18 thg 2, 2009

Mo mo nhan anh


mờ mờ nhân ảnh
tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư

Đáng lẽ tên nhân vật này là Nguyễn (lúc này Nguyễn là tên thịnh hành, chẳng phải các vị lãnh đạo cao cấp của mình hầu hết đều là Nguyễn đó sao, chẳng phải quá chừng đông nhà văn, nhà thơ trên đất nước này đều là Nguyễn đó sao!), nhưng nghĩ lại, gọi là Harry Potter là hợp lý.
Lý do: chẳng ai gắn bó với kính như chàng phù thủy dễ thương nổi tiếng này. Câu chuyện như sau: bữa nọ, vì yêu thầm nhỏ bạn xinh đẹp, Harry quyết định bỏ kính qua một bên, cho… có vẻ đẹp trai, phớt đời, sương gió. Chàng ta mặc cảm với cặp kính mọt sách của mình. Chàng ta dùng bùa chú nhốt cái kính vào chiếc hộp có 2 tỉ ổ khóa với 2 tỉ chìa khóa được trộn lẫn vào nhau.
Từ giã một cuộc đời rực rỡ, Harry bắt đầu sống với đôi mắt xuống cấp trầm trọng, mờ mịt, tầm nhìn xa chưa đầy… một mét. Hồi nào giờ Harry chưa nhìn đời lung linh như vậy. Bây giờ thì tha hồ mơ mộng. Những phố, những nhà bỗng chênh chao như trong khói nắng. Qua sông, thấy sông chìm lãng đãng dưới sương. Rác xao xác trên đường cũng chẳng khác gì lá vàng đang hát khúc ca về cội. Đời ít màu sắc, không chói gắt, mọi hình khối trở về với sự đơn giản nhất, ít chi tiết nhất. Quá hay.
Chàng phù thủy suốt ngày chỉ lo học hành, đánh đấm đã biết thẫn thờ, mộng mị. Mắt lúc nào cũng dịu dàng, mơ màng. Coi đá bóng, ti vi cách chừng hai mét nhưng chỉ thấy áo trắng, áo đỏ chạy tới chạy lui. Vài người bỗng đẹp lên một cách ngỡ ngàng vì được lược bỏ một số chi tiết thừa, chẳng hạn như mặc áo chim cò, quần thì rách lai, tóc tai bờm xờm...
Bỏ kính, tai Harry tự dưng cực quá chừng. Nó phải lắng nghe, cảm thụ, phân tích những xấu đẹp của đời. Không ám ảnh bởi vẻ đẹp của người ca sĩ, của sân khấu lộng lẫy, tim Harry chẳng thèm run rẩy trước một tà áo xẻ cao, chỉ còn nao nao vì thanh âm thuần khiết của những bài hát quá chừng hay. Harry bồi hồi phát hiện ra mình có khả năng nhận biết tiếng từng bước chân trên những bậc thang, phân biệt được những tiếng cười ở phía xa xa, có cái cười nhiều thanh âm vỡ, lạc đi, có tiếng cười lạt nhách, có tiếng cười hể hả, phơ phởn, xủng xoảng và có tiếng cười buồn như cái ho khan... Tiếng cười mở ra những phận người.
Mắt mờ, Harry sống chậm hơn. Cậu thường mở cửa sổ, nghe gió run rẩy trong vòm cây bên dưới, những viền lá chạm vào nhau khẽ khàng, rụt rè, tê dại như lần đầu tiên người ta chạm môi nhau. Cách một bờ rào, xóm hẻm đã không còn ở đó nữa, hiện thực hơi lùi lại... Những mái nhà lem nhem khói, chắp vá bằng những tấm tôn, tấm nhựa rối nùi bỗng chỉ là bức tranh màu nước, hơi xa, chỉ tiếng chửi thề, tiếng trẻ con rượt đuổi nhau, tiếng rao, xoong chảo khua, tiếng khạc nhổ... là xao động. Giống như có người bịt mắt Harry, cậu nghe hơi thở phập phồng nóng bừng sau gáy, ngửi được mùi dầu gió trên tay, cảm nhận được khuôn mặt đó, nhưng cậu không thấy, hay thấy bằng cách khác, bằng tinh tế, bằng nhạy cảm, bằng nỗi nhớ, bằng tâm hồn của chân tóc và đầu những ngón tay.
Bằng cả những giác quan còn lại. Cái mũi xấu xí cũng thôi mặc cảm. Nhờ nó, và mùi bắp nấu, Harry biết bên hẻm, người đang sấp ngửa với cuộc mưu sinh. Bên ấy, khói đang lên, những ngọn khói ban đầu thì mảnh, khẽ khàng, dùng dằng, sau cuộn lên day diết. Lên cao, gió khuấy loãng khói chỉ còn là những cái gợn xanh xao. Cậu ta nhìn thấy khói, bằng ký ức những ngày rỗng không, viết không xong, đọc sách không xong, chán người và cậu đã ra đây nhìn khói. Trong khói có mùi bắp nấu ngọt lành.
Cái kính dày như đít chai vẫn nằm im trong hộp. Từ khi rời nó, Harry hiền lành kỳ lạ, dịu dàng kỳ lạ, trên môi cậu luôn sẵn một nụ cười. Cứ thấy lờ mờ bóng người lại nhoẻn cười, vì lẫn lộn những người quen và không quen, không cười thì sợ phụ nhau. Nên một bữa tụi phù thủy hắc ám đi ngang qua chàng phù thủy nhỏ, bỗng hết hồn khi thấy cậu ta cười cực kỳ thân thiện, dễ thương. Cả câu bùa chú tàn khốc nhất cũng không làm cho kẻ ác rối bời như một nụ cười thương yêu, nồng hậu.
Cả Harry cũng ngỡ ngàng nhận ra, không nhìn đời khắc nghiệt bằng mắt nữa, bỗng dưng dịu lại những vết thương lòng.
nguồn tranh: toantin.org

Thuoc ve Ma'


thuộc về má…
tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư

Đưa má ra bến xe, giỏ xách đứt quai, đồ đạc đổ lủ khủ ra đường, hai má con nhặt nhạnh giữa những làn xe xuôi ngược. Chị càu nhàu, “trời đất ơi, má mang về làm chi mấy thứ này?”. Cái chị nói là những chai lọ rỗng đang nằm lăn lóc. Má chỉ cười, hối chị mau mau thu dọn, đừng có ngồi đó nhăn nhó như khỉ ăn gừng.

Ngồi sắp xếp lại đồ đạc bên vỉa hè, má mới nói, coi đồ bỏ vậy mà trong quê quý lắm, má đem về để chiết dầu hôi, nước mắm cho bà con trong xóm. Bất giác chị nhớ tới cái tiệm tạp hóa nhỏ nhà mình, nhớ những khách hàng chân dính bùn chỉ dám đứng ngoài sân, bồn chồn gọi vào, “bán con hai ngàn đường, năm trăm đá cục…”. Chị thấy cơn bực bội dịu xuống.
Ngồi với má, lặng lẽ chèn những cái chai vào mấy giỏ xách chật cứng, chị nhận ra sự chu đáo của đứa em gái đang trọ học ở nhà mình. Em đã chuẩn bị cho má rất nhiều thứ. Những chai lọ là do em súc rửa. Và trong giỏ, như mọi khi là trà, xà bông, bột ngọt, thuốc lá, báo cũ, mớ củ cải muối nằm còng queo, những bộ quần áo trẻ con nhà chị đã mặc qua mà má nói đem cho mấy đứa nhỏ nghèo. Bỗng dưng chị thấy ngượng ngập.
Những thứ má cùm nụm cùm nịu mang về, một nửa là phế thải trong nhà chị. Một nửa, như bột ngọt, đã lâu không có trên kệ bếp, vì những khuyến cáo ảnh hưởng đến sức khỏe, đến trí nhớ. Thuốc lá ba chị hút, là loại không đầu lọc, rẻ tiền, khói thuốc vo tròn những cơn ho khan rát ngực. Những cái bánh bột đậu ba má chị hay ăn trong lúc uống trà, cũng đã lâu chị chẳng mua về, bởi trẻ chê không ngon.
Những gì chị từ bỏ, má lại nâng niu. Nhà thay ti vi mới, chị gửi cái cũ về, má mừng nói hồi nào giờ mới thấy Lệ Thủy đánh má hồng, tô son môi. Nhà chị lót gạch mới, ba chạy xuồng máy ra chở gạch cũ về lót đường đi, vạc giường cũ đóng vách chuồng gà. Xấp báo mang về từ gầm tủ nhà chị, má nhen lửa, má gói hàng cho khách. Những bữa chị về ghé qua bếp, thấy ơ cá kho mặn quắt, má kho bằng loại nước mắm giá chỉ vài ba ngàn một lít, má cũng biết đó chỉ là nước muối nhưng má cười, “xóm mình cũng ăn như nhà mình…”
Cũng những bữa canh rau suông đậm bột ngọt để nuốt xuôi cơm cháy, để giả vờ cái vị ngọt của thịt mà vì chợ xa, vì nghèo… lâu lâu mới hiện diện trong mâm cơm một lần. Cũng những chai nước đường thêm thắt chút vị coca mà đứa trẻ năm tuổi thành phố đã biết nguây quẩy từ chối. Cũng những chai (giống như) nước tương cáu cặn không xuất xứ, không hạn dùng.
Thành phố xem chúng là rác. Má biết điều đó, thậm chí chị đã chỉ cho má cách từ bỏ chúng. Nhưng má chỉ cười buồn, tiền nào của nấy, và người nào thì tiền nấy. Ở quê, mua món gì là người ta cầm mấy giạ lúa đi mua, nên tiền nặng lắm… Người đời luôn có những khoảng cách, không bao giờ có công bằng, chị biết. Nhưng chị đã không nghĩ tới, ranh giới đó cũng tồn tại giữa chị và má, và bà con họ hàng quê xứ.
Giờ thì khoảng cách đó rõ ràng hơn bao giờ hết. Ngồi chờ xe lăn bánh, cạnh má và mấy giỏ xách lỉnh kỉnh, giữa những hành khách nhếch nhác mệt mỏi khác. Chị nhìn chiếc xe chút nữa đây sẽ đưa má về quê, nó cũ nát, gỉ sét, nóng hập và loang lổ bụi. Chiếc xe có cánh cửa sắp rơi ra và một mảng kính rạn nứt này sau khi mỏi mòn chạy trên những quốc lộ liên tỉnh, người ta mới đem nó về những con đường huyện lị heo hút. Và má, những người dân quê má vẫn lấy làm hạnh phúc chen chúc đi về.
Trên chuyến xe xốc xếch đó, có bà mẹ trẻ đang ngồi cạnh chị đây, đang nâng niu xếp ra xếp vào mấy gói kẹo sặc sỡ phẩm màu, chắc chắn cũng rất đậm đà vị ngọt của đường hóa học. Nhưng dù chúng được làm bằng gì thì chúng cũng được chào đón bằng tất cả nỗi vui mừng, chờ đợi, thèm thuồng của những đứa trẻ ở nhà. Chúng cũng ngọt lịm cả một ký ức, mỗi khi nhớ lại, như chị nhớ lại tuổi thơ mình.
Những viên kẹo đã từng ám ảnh chị, giờ đã thuộc về má, làng quê của má, thế giới của má. Xa xôi…
ảnh: new.dalatrose.com

Cho cua Ma'


Chợ của má
Nguyễn Ngọc Tư

Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má, bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhớ hoài, thương hoài như thương... má vậy.

Bất cứ khu chợ thực phẩm nào ở thành phố Cà Mau cũng có một góc nhỏ dành cho người chợ ruộng. Chợ bắt đầu từ tiếng xe lam chở hàng lặc lè, ậm ì trong buổi sớm, bằng tiếng trò chuyện êm đềm, bằng đôi tay oằn, đôi chân mỏi. Chợ bắt đầu bằng những cái bao ni-lông trải ra nền đất. bàn tay nào bày ra đó mấy trái dừa khô, mấy nải chuối vàng, con vịt lạc cạc bên rổ trứng. Trên thúng, trên nia lún phún nhô lên những ngọn rau uống sương cong cong.
Hầu như tất cả rau trái ở quê mình có, ở chợ ruộng có. Từ rau muống, rau lang, mồng tơi, bù ngót đến lá chuối xanh, lá dứa, bó sả, nhúm ớt... Rồi cá, rồi gà, vịt, chuột đồng... Ngày rằm, ngày ba mươi, chợ trang điểm bằng bông trang được cột thành khóm đỏ tươi bán cho những người cúng bàn thờ Phật. Mồng hai, mười sáu, chợ lúc nhúc những chú gà non tơ. Trời hạn, chợ bày thúng rau đắng đất run rẩy xanh cho ta thèm một nồi cháo tống. Bữa nắng chiều, chợ có rễ tranh, mía lau... Mưa xập xoài, chợ lổn nhổn ốc lát bán kèm lá ổi, lá sả. Những con ốc lát vừa cựa mình trở dậy từ đất, thịt cứ ngọt lừ. Cũng cử này, người ta bán xổi rau muống đồng, loại rau muống bị chìm trong nước nhú lên những cái đọt non mềm, cỡ một gang tay, trắng nõn, tưởng như có thể bẻ bằng mắt một cái "bụp" ngon ơ. Mùa nào thức ấy. Nhưng có hôm ta thèm thứ trái mùa lại gặp ở đây thứ trái mùa. Vô tình, chính con người nón rách áo túi cùng những món hàng đã khoác lên cho chợ ruộng một cái áo bình dị, một linh hồn hiền hậu mà rất đỗi thiêng liêng. Thêm vào đó một chút thâm trầm dân dã. Thì có gì dân dã bằng nắm rau càng cua mọc từ chái hè, mấy trái bình bát chín hườm mọc từ hào ranh, rổ đọt lúa hái từ sân trước.....
Chỉ có vậy mà những nội trợ đảm đang mê đắm mê đuối chợ này. Họ mua được nhiều rau tươi, cá tươi, giá lại rẻ do gần như người bán chỉ lấy công làm lời. Họ mua được đầy ắp lòng tin từ bàn tay cần cù của những tấm lòng nông dân chân chất. Và những người xa quê đỡ nhớ quê nhà.
Những người ra chợ Cà Mau đều từ ngoại thành, từ những địa danh như Bà Bèo, Đàn Âm, Nhà Phấn, Tân Thành, An Xuyên vốn có truyền thống trồng rau, đi chợ.. Lọn rau muống giá 150 đồng, nhúm đọt chùm ruột giá 500 đồng, xấp lá chuối 1000 đồng... học cũng tích cóp tháng ngày. Thật ra, nhà nào cũng có một vài công ruộng nhưng "ngồi không ăn lúa kho cũng hết, nên đi bán kiếm ít đỉnh tiền". Khuya sớm gánh gồng đi chợ, chợ tan, các mẹ, các chị về nhà, lua vội vài chén cơm, lại tần tảo quẩy giỏ, cầm dao ra vườn lo buổi chợ mai. Cắt, lặt, rửa, bó lọn... loay hoay cũng đến tận chiều. Bàn tay thấm nước, nhăn nheo, bàn tay tái nhợt. Vậy mà buồn (chắc là nông dân ai cũng buồn kiểu này), họ không định đoạt được giá cả món hàng. Nó có thể rẻ, rất rẻ (mồ hôi có rẻ vậy bao giờ).
Đội rau đi chợ trở thành một công việc đẹp của người nông dân tự đời nào không biết. Tìm được một người đi chợ lâu năm không khó, chỗ này, đằng kia đều có mặt những người dì "tính từ hồi đó đến giờ tui đi đứt cỡ 50 đôi dép Lào". Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm... buồn.. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền đi xe thì đi bộ, "miễn sao đỡ ghiền chợ. Ở nhà buồn tay buồn chân, đi bán, một trăm đồng cũng đỡ một trăm". Những đồng tiền nhỏ nhoi nhưng đầy niềm vui bởi nó được làm ra từ giọt mồ hôi mặn, từ tấm lòng lương thiện, thẳng ngay.
Những chuyến hàng lại ra chợ vào buổi sớm mai.
Nên sáng nay con đứng nhìn và con nhớ má. Ngày xưa, có phải má con mình ngồi đằng kia, trong góc đó? Và con ngồi chồm hổm, mắt ngó về ông già bán kẹo mà tay chắt chiu rổ trứng gà con con. Ôi! Nhớ hồi xưa quá, má há?
Ảnh: diendanvanhoathethao.net

Nguoi nha que


Người nhà quê
Bút ký của Nguyễn Ngọc Tư


Họ là ai? Là những người đi vệ sinh không nhấn nút xả nước dội cầu, mang dép vào nhà mặc cho nền gạch bóng lộn. Vì “mù” luật giao thông, họ lừng khừng qua đường trước mũi xe ta (ngay cả lúc ta quyết định dừng lại nhường họ qua thì họ lấm lét rụt lại không thèm đi tiếp nữa).


Họ hà tiện, thích ăn những món rẻ tiền bên đường, kém vệ sinh. Mặt mũi họ luôn đen đúa lem luốc, răng đầy bợn. Họ ăn mặc đơn điệu, luộm thuộm, có chưng diện cũng thô thiển, quê mùa, từ đôi bông tai vàng choé cho tới kiểu tóc uốn dợn. Họ viết chữ cực xấu (vì đôi khi trình độ chỉ tới lớp ba nhưng khoái nói chuyện chính trị văn hoa), họ cả tin vào chuyện thần thánh vẩn vơ, những tin đồn buồn cười, vô căn cứ...
Họ gây cho ta một sự khó chịu cả khi bày tỏ tình cảm, khi cố nài ép ta phải nhận món quà là buồng chuối chín, hay dăm ba trái dừa khô (ở chợ, ta cần chi những thứ này, khi mà món ngon vật lạ bày đầy ra trước mắt), đôi lúc họ còn dúi vào tay ta một con vịt ốm nhách, hôi hám, lấm láp phèn.
Hình ảnh họ là một vệt lấm lem trên cái nền thị thành rực rỡ, như sẵn tay ngoáy mũi rồi bôi bừa lên những bông hoa lịch lãm và sang trọng. Và mỗi khi có cảm giác khó chịu với người nhà quê, mỗi khi lườm nguýt, cười cợt họ, mỗi khi chen vào con đường lúc nhúc xe cộ, buộc miệng mắng nhiếc họ "Bộ muốn chết sao mà chàng ràng đây?", tôi đều tha thứ cho mình.
Nhưng mười một giờ trưa ngày thứ hai rồi, trên đường về nhà, người đi cạnh tôi tạt câu nói đó vào một người quê (thật dễ nhận ra với áo bà ba nâu khoác ngoài cái áo túi đã phai màu, tay xách giỏ đệm) lủi thủi đi trong khói nắng, tôi bỗng nghe nhói ran. Bỗng thấy giận cái người đã buông lời đau như ném đá.
Bỗng thấy tôi đã thay đổi, đến giật mình.
Đến ngơ ngác, không biết người nhà quê trong mắt tôi đã khác tự hồi nào, sao tôi lại ngoay ngoắt thương yêu họ đến thế kia. Họ có khác gì đâu, vẫn nghèo, lam lũ, cục mịch và bỗ bã. Những mùa mưa, tôi thấy họ ngồi khóc bên đống lúa ướt đã lên mầm trắng xóa. Tôi thấy những phụ nữ dầm mình dưới kinh, bẻ rau muống ra chợ bán, món tiền cho một thúng rau chỉ bằng tô phở sáng của tôi. Con nít đi kéo tép rong bị ong nghệ đánh sưng mắt. Tôi thấy những bữa cơm nghèo, người già, trẻ nhỏ cũng chỉ rau luộc chấm nước chao, hay mấy con cá lòng tong kho tiêu, mặn và khô quắt. Tôi thấy những vách nhà gió xé tơi tả, trống lỗ trống hang mà họ không tiền sửa, bộ vạc nằm ngủ cũng chỉ cây ván vụn ghép tạm. Những mùa nắng, tôi thấy họ gánh nước tưới rau hay đào đất sên vuông giữa trưa nóng rẫy. Cả đống lúa nhễ nhại mồ hôi, thành quả lao động ngót ba bốn tháng ròng chỉ đáng giá một tiệc nhậu của người thành thị. Nên họ đi qua mùa nông nhàn, mùa giáp hạt bằng cách bắt chuột đồng, hay đào củ năn để bán.
Những món quà họ dành cho tôi cũng chẳng sang trọng lên chút nào. Vẫn chuối, dừa, ổi, mãng cầu chín trong vườn nhà, họ dúi vào túi xách khi tôi xuống bến. Có ông cụ còn tặng tôi một mặt thớt mù u, tôi đem về quẳng vào một góc. Sau này, nghe tin ông mất, vì bệnh uốn ván (mà người ta hay gọi là "phong đòn gánh"), nghe rằng, ông đạp phải một cây phảng sét. Tôi lấy đinh đóng vào tường treo mặt thớt ấy lên, không biết đau ở đâu mà suýt rơi nước mắt.
Những người nhà quê, họ là ai ? Những chuyến công tác ở vùng đất xa ngái của quê nhà đã giúp tôi vẽ lại họ một chân dung khác. Họ nhọc nhằn cả đời để rồi cả đời nghèo khó, thiệt thòi.
Tôi ngả lòng về phía họ khi nhận ra điều đó ?
Hay vì một bữa, đứng ở Sài Gòn, tôi đắng đót nhận ra mình cũng là người nhà quê, mình chưa và không bao giờ từ bỏ được sự thật đó. Ngay lúc ấy, tôi bỗng nghe thèm được ai đó cầm tay dắt qua đường, mà không, một cái nhìn ấm áp thôi, cũng được...

Ảnh: blog.timnhanh.com

Ben Tre


Bến Tre
tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư

Cứ mỗi lần qua Trung Lương, tôi hay nghĩ, chỉ cần rẽ vào thành phố Mỹ Tho, qua một chặng đường, là tới một bờ sông. Qua con sông đó, tôi sẽ gặp Bến Tre. Tôi sẽ được về nhà...

Cái ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác lạ lùng, chẳng có mối quan hệ ràng ruột nào ở đó, chẳng có giọt máu, đốt xương nào của tôi, của những người thân tôi ở lại trên mảnh đất đó, vậy mà vẫn thương, một cách kỳ lạ, vẫn nghĩ rẻo đất hẻo lánh kia là quê, là nhà mình.Mà ngộ, tôi không biết Bến Tre. Cẩn trọng với từ “biết”, bạn chơi cùng nhau mười năm, tôi không dám nói biết, ở trên đất quê mình ba mươi năm, tôi ngập ngừng chưa biết đã biết chưa, huống chi, chỉ hai lần tôi đến Bến Tre.

Bến Tre lần đầu, tôi ngơ ngác như một cô dâu mới, con phà Rạch Miễu chạy chậm như chiều. Một chuyến phà thong dong, người ta bỏ ra khỏi xe, ngồi ngắm sông, người ta cười nói chậm, đốt thuốc và nhả khói cũng chậm rì. Thời gian như ngưng đọng, trên gương mặt người, trên giòng sông, trên cái cồn đất xanh rì cây trái. Suốt ba ngày sau đó, tôi chỉ biết Bến Tre có cái quán cháo cua đồng, nấm mối xào ngon rụng rún, sông Hàm Luông thì buồn lắm, đi mãi đi mãi mới gặp được một con tàu ngược nước. Sông chảy cũng chậm, dịu dàng. Người say chậm. Yêu chậm và tỏ tình chậm.

Lần thứ hai tôi qua phà Rạch Miễu, mưa và đêm tối mịt mùng. Xe mượn nên xe lạ, đất lạ, sông lạ, cả mưa, cả người cũng lạ. Đứng gần tôi có một bà mẹ trẻ đang cố giữ ấm cho con bằng chiếc khăn choàng mỏng. Đứa bé thì cố ngọ nguậy chui ra để nhoẻn cười với mọi người. Một dì khoác tấm cao su trên vai như Thi Sách sắp ra trận trong tuồng “Tiếng trống Mê Linh”, tôi đoán là dân buôn bán, vì bao đồ ngồn ngộn được ràng phía sau xe, âu yếm hỏi tôi, ăn mặc phong phanh vậy có lạnh không con? Tôi thưa rằng không, trước câu hỏi đó, tôi có lạnh vì mưa xiên qua phà, lay lắt. Nhưng bây giờ tôi ấm như đang ngồi trước lửa, và trong cơn chếnh choáng như lần uống rượu đầu đời, tôi gật đầu khi một chị hỏi quá giang về ngã ba Tân Thành.

Sau này, nhớ lại, tôi buồn cười. Đi một đoạn, mới sực nhớ chị ta bịt kín mặt, không biết là người tốt hay người xấu, không biết đoạn đường trước mặt có đèn hay tối tăm, có mũi dao nào rởn lạnh chỉa vào lưng ta, và người ấy có cười khà khà, cầm túi và xe (mượn) của ta chạy mất. Ý nghĩ đó càng ngày càng riết róng, nên vừa đi vừa phấp phỏng. Đằng sau, chị hồn nhiên kể chuyện mình, một người Bến Tre trôi giạt đất Sài Gòn, mai là đám giỗ ba chị, tôi canh chừng cái túi mình, nhát gừng ừ hử. Rồi chị xuống ngã ba đón xe ôm về Tiên Thủy, tôi vào thị xã. Tôi thấy không mất gì mà đau xót như đã mất gì. Mất trước khi gặp chị trên chuyến phà đêm đó, mất lòng tin.

Chuyến phà, nụ cười của đứa bé, dì “Thi Sách”, chị phụ nữ không gương mặt, không tên tuổi ấy, cũng là một phần của nỗi nhớ tôi. Một nỗi nhớ mơ màng và mỏng, dai như tơ nhện. Hay nó chỉ là cảm giác. Như một mảnh gió bị lá cây xé vụn, những vẫn còn đủ ướt lạnh, khi lướt qua da ta làm se những lổ chân lông, cay mắt, và rùng rùng từng đốt sống trên lưng. Cảm giác thanh sạch về một dòng Hàm Luông trong vắt, hiền hòa, dịu dàng, lừ đừ. Cảm giác bình yên như những con đường nhỏ hai bên phủ đầy cỏ chạy mê miết dưới những vườn dừa mê miết. Cảm giác ấm áp với những người bạn ít nói hay cười, từ tốn, nói câu nào chắc câu ấy, không giao đãi à ơi. Cảm giác thơm thảo như mùi nấm mối nướng rợp cả góc vườn bên sông. Cảm giác ngây dại, hồn nhiên khi rượu Phú Lễ ngấm vào lòng. Và tuổi thơ thiếu thốn nào dậy lên khi ngậm lại cục kẹo dừa ngọt lừ, béo ngậy.Khi tôi ngồi ghi lại những cảm giác rời này, tôi nhớ câu nói của Tài, “Người ta tốt đến nỗi mình thấy mình không xứng đáng. Bến Tre dễ thương. Xuống đó gặp toàn đực rựa, nhưng về nhà viết mấy bài thơ... tình”. Tôi nhớ lúc ông sếp tôi buồn, căng thẳng, lúc đau, lúc bị những đồng chí của ông xiên tên vào lòng, ông hút thuốc nhiều, và ngó ra ngoài cửa, chép miệng, “nhớ tụi Bến Tre quá chừng...”. Cũng ông, mỗi khi vui, ông lại nhắc, phải có mấy đứa Bến Tre ở đây... Tôi nhớ lời Duyên khi từ giã Bến Tre rồi, “mưa ở đó cũng hiền”. Tôi nhớ tới lời bài hát, “Ước gì đang trắc trở. Gặp nụ cười Bến Tre…”.

Nhưng cụ thể Bến Tre là gì, tôi không biết. Kỷ niệm gom lại thì cũng một chuyến đi chơi sông, đám bạn bè nhổ tôi từ quán này trồng qua quán khác, từ cháo cua đồng qua nấm mối, cháo vịt. Những con đường nối tiếp những con đường đưa tôi đến một đám cưới rộn ràng. Chú rễ cười xòa như năm trước cười tiễn tôi, đường dài, thẳm nắng. Những chiếc phà chậm rãi cắt ngang những dòng chảy chậm. Chôm chôm chín đỏ, chất vun trong những cái cần xé để bên đường. Những ông bà già nhảy tango trong sân nhà văn hóa. Rượu Phú Lễ trong vắt, sủi tăm. Một người viết lớn càng thu mình càng lồ lộ ra, con đường hẻm heo hút, ngôi nhà nhỏ, vườn dừa… không có gì che chắn được sự phát sáng đó. Những người viết trẻ hơn ngà ngà đọc những câu thơ cũ, xếp bằng ngồi mời rượu nhau ở hàng ba nhà của một nhà thơ nghèo, sau lưng là tấm vách bằng mê bồ trét cứt trâu, những tấm vách “che bề nào cũng gió”. Và căn gác trọ, có ông già ‘tiếp tân”vui tính, chỉ còn vài chiếc răng lơ phơ, duyên dáng kể chuyện đời mình (cũng) bằng thơ, vẫn nhớ phòng số 5 mà tôi từng ở, để lần sau nữa, ông lại trao cho tôi chìa khóa phòng số 5… Tôi nhớ được cũng chỉ vậy, viết trôi chảy cũng chỉ vậy. Những cảnh như vầy có thể gặp ở bất cứ đâu trên vùng đất Tây Nam Bộ này, nhưng cái cảm giác Bến Tre thì không lẫn vào đâu được.

Cảm giác của một người đứng trước sông. Giải thích về sự hiền hòa, ngang tàng, trầm tư, hào sãng và cởi mở của Bến Tre, tôi chỉ biết lấy cái tâm thế đứng trước sông của Bến Tre ra mà nghĩ. Quay mặt về đâu cũng sông, đi đâu, ngó đâu, Tiền Giang hay Vĩnh Long, Trà Vinh cũng có những dòng sông vây bọc, sông rẽ đất mà chảy, cắt những cù lao để trọn một vòng tay mà ôm lấy cù lao. Phía còn lại là biển. Bến Tre như một người ngồi thiền định trên một lá sen, tâm trong trẻo róc rách tiếng nước đang lên. Một miền Tây thu nhỏ ít phai lạt, nhiều cảm giác.Và vì nó nhiều cảm giác, nên tôi không biết thể hiện, cụ thể hóa bằng câu chuyện của mình như thế nào. Viết lại cảm giác là một điều không trọn vẹn, ít nhiều dang dở. Huống chi là chia sẻ, bởi hầu như không thể chia sẻ một cảm giác mà ta đang có. Nên mỗi khi nghe bạn xa bảo sẽ đi miền Tây, tôi mời bạn đến chỗ tôi, tất nhiên rồi. Và Bến Tre. Thông cảm cho tôi, cứ mỗi lần khách đến, tôi căng như người vào trận đánh. Làm sao cho khách ấn tượng mạnh, thương nhớ dài lâu, làm sao khách còn quay lại một vùng đất không có cảnh quan hùng vĩ, tú lệ. Làm sao người nhớ ta như ta đã từng nhớ người. “Ra trận” chỉ những món ăn ngon lạ lùng, những cánh rừng ngập mặn mênh mông, những dòng sông mùa nào cũng đầy nhóc nước, những con rạch quanh co, những chiếc xuồng ba lá chao trên mặt nước mong manh… “Ra trận” còn có những con người, mà tôi nghĩ cũng là những kỳ quan. Và người Bến Tre với tính cách sánh đặc, nồng Tây Nam Bộ sẽ làm choáng váng, ngất ngây khách lạ. Tôi cũng là dân miền Tây, gặp Bến Tre còn thấy ngẩn ngơ, thấy ngọt ngào nữa mà.
Thông cảm cho tôi, một người tầm thường của vùng đất bị quên lãng, bởi chiến tranh, bởi trắc trở địa lý, bởi những vướng bận vụn vặt đời thường. Khó khăn, lâu lắc lắm khách mới đến được, cũng khó khăn và lâu lắc khách mới trở lại, dịp để gieo thương nhớ, lỡ không kịp, biết còn có lần sau?

Thông cảm cho tôi, bởi cái cảm giác Bến Tre tôi không thể cứ ôm ấp mãi, tôi cần người để nói, Bến Tre dễ thương hen, để nhận được sự đồng tình, “Ừ, Bến Tre dễ thương”. Để nhìn vào họ, thấy niềm vui ngọt lành nhói lên trong mắt, thấy ký ức mơ màng trở về những chuyến phà.Chuyến phà mang vẻ mặt cô gái sầu muộn làm cho nhịp sống đô thị ngẩn ngơ, dừng lại bên kia những con sông. Quãng thời gian nó chạy lòng vòng qua những cái cồn xanh um cây trái đủ để người ta rũ hết bụi đường. Và hít thở gió sông, và thấy lòng lành những vết. Và khi tách bờ Bến Tre, chuyến phà bỗng trở thành cô gái đang hò hẹn, một chút bâng quơ, một chút nhớ, và chút gì đó tuyệt vọng… Bởi qua bờ, lưu lạc trên đất khác, quay lưng lại với sông rồi, kẻ còn sông trong lòng thì vẫn nồng Bến Tre, nhưng cũng nhiều người lạt đi, phai đi. Bởi qua bờ, cuộc sống ồn ào chen chúc, sự mệt mỏi ngay lập tức ập vào, và khi ngoái nhìn. Thương đã mịt mù xa, như ở một thế giới khác.
Bến Tre, rốt cuộc chỉ còn là những cảm giác. Mềm, ấm và ngọt ngào.

Và câu chuyện về nó được viết lên bởi một người viết vụng về, cũng không sao tránh khỏi rời rạc và chắp vá, nó không phải một bài bút ký thông thường, theo khuôn mẫu thông thường, tôi đến, tôi đi lòng vòng, tôi thấy, tôi về. Bởi tôi không đến, cũng không đi đâu, không thấy, và tôi không về. Tôi ở dưới mặt đất, cảm giác trên ngọn dừa, những con đuông dừa rúc vào nách lá non, và trong tổ chim vắt vẻo, những con sẻ nhỏ đang khẻ mỏ chui ra khỏi trứng. Tôi ở bên một con sông, cảm giác bờ kia đang liêu xiêu bông bưởi rụng trên những chiếc lá mục trong vườn. Tôi soi mình xuống nước, cảm giác dưới đáy sâu kia phù sa đang nhảy múa, dịu dàng.

Tôi đang phân bua với mọi người tại sao tôi là một người miền Tây lạt, vì những dòng sông quê tôi đều ở sau lưng tôi. Hay sông luôn ở trước mặt, nhưng tôi đã quay lưng lại?