21 thg 2, 2009

S.Beauvoir & J.Sartre (2)


Simone de Beauvoir &
Jean Paul Sartre
Simone Lucie-Ernestine-Marie Bertrand de Beauvoir - triết gia, nhà văn và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng người Pháp; được gọi là người làm thay đổi giới phụ nữ phương Tây thế kỷ XX.

J.P.Sartre là đại diện của triết học hiện sinh (existentialism, còn gọi: chủ nghĩa tồn tại, chủ nghĩa sinh tồn) của thế kỷ XX, một trào lưu triết học có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Cuộc đời ông chính là một trải nghiệm của trường phái triết học mà ông đại diện, trong đó có cuộc sống riêng.
J.P.Sartre không lấy vợ, nhưng ông có người bạn tình trọn đời là S.Beauvoir; hai người không xa rời nhau suốt từ năm 1929 - khi gặp nhau lần đầu - cho tới năm 1980, khi Sartre qua đời, mười năm cuối đời ông hoàn toàn chung sống với bà. Nhưng họ không cưới nhau bao giờ, cũng không liên tục sống chung một mái nhà suốốt thời tuổi trẻ, tuy có dịp là ở bên nhau. Hình như giữa hai người chỉ có một mối “tình bạn kiểu hiện sinh”.
Tổng thống Pháp François Mitterrand từng ca ngợi Beuvoir là “một trong những nhà văn bậc thày, nhà tiên phong vạch thời đại. Cuộc đời bà, các tác phẩm bà viết và cuộc đấu tranh của bà đã nâng cao giác ngộ tất cả những người đàn ông và đàn bà nước Pháp cũng như toàn thế giới”. Tên bà được đặt cho một cây cầu bắc qua sông Seine thơ mộng (Passerelle Simone de Beauvoir), đoạn chảy qua Paris. Cầu do kiến trúc sư người Áo Dietmar Feichtinger thiết kế, có hình dạng độc đáo như một con mắt mở. Thư viện quốc gia Mitterrand sừng sững bên này cầu, bên kia cầu là tòa kiến trúc đồ sộ của trụ sở Bộ Tài chính Pháp, và công viên Bercy xanh tươi, êm đềm.
“Sartre có đầu óc xuất chúng, nhưng Beauvoir mới là nhà triết học thực sự”
S.Beauvoir sinh ra trong một gia đình khá giả ở Paris; cha là luật sư tòa án Paris, mẹ là tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo. Trong thời gian học đại học, Beauvoir rất giỏi các môn văn, toán. Tốt nghiệp Văn khoa trường đại học Paris năm 1927, tiếp đó bà quyết định lấy bằng thạc sĩ triết học (agrégation de philisophie), một học vị rất khó đạt.
Năm 1929, Beauvoir hợp tác với một nhóm sinh viên tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Paris, trong đó có J.P.Sartre; hai người cùng nhau trả lời các đề thi.
Kết quả, Sartre, 24 tuổi, đỗ đầu bảng nam (thi lần 2), Beauvoir, 21 tuổi, xếp thứ hai bảng nữ. Beauvoir là người trẻ nhất được phong học vị thạc sĩ triết học trong lịch sử nước Pháp. Giáo sư André Lalande, chánh giám khảo kỳ thi nói: “Sartre có đầu óc xuất chúng, nhưng Beauvoir mới là nhà triết học thực sự”.
Luôn làm việc bên nhau nên giữa Sartre và Beauvoir nảy sinh tình cảm. “Tháng 8 năm ấy, khi lần đầu chia tay, tôi đã linh cảm thấy anh sẽ không bao giờ ra khỏi cuộc đời của tôi nữa” - Beauvoir viết tiếp: “Đây là kiểu tình yêu tất yếu giữa hai chúng tôi. Sau này chúng tôi sẽ đi tới kiểu tình yêu ngẫu nhiên”.
Quả thế, mỗi lần ngẫu nhiên gặp lại nhau, họ sống như vợ chồng, tuy vẫn tôn trọng người kia có quan hệ tình cảm với kẻ thứ ba.

Sartre nói với Beauvoir “Anh yêu em, nhưng không tôn thờ chế độ một vợ một chồng.” Suốt đời họ không lấy nhau có lẽ vì ngại cuộc sống hôn nhân sẽ hạn chế tự do của mỗi người. Ai cũng biết Sartre vô cùng coi trọng tự do cá nhân, ông tán thành quan điểm tự do là giá trị tối thượng của con người, đã là người thì nhất thiết phải được tự do... Từ quan điểm đó, ông đã kế tục và phát triển xuất sắc trường phái triết học hiện sinh.
Năm 1931, Bộ Giáo dục cử Beauvoir đi dạy trung học ở Marseilles, miền Nam nước Pháp, Sartre đi Le Havre, một thành phố miền Bắc. Cặp tình nhân thế là mỗi người mỗi hướng, chỉ có dịp chung sống nhau trong kỳ nghỉ hè.
Rồi một mối tình “ngẫu nhiên” khác bỗng dưng xuất hiện. Cô học trò của Sartre là Olga Kosakiewwicz đột ngột xen vào giữa hai người. Tình cảm của Sartre dành cho cô gái này đã mang lại cho Beauvoir đề tài để viết nên thiên tiểu thuyết đầu tay "Nữ khách" (L’Invitée), xuất bản năm 1943. Tác phẩm khá thành công, đặt nền móng cho hoạt động sáng tác của bà sau này.
Thế nhưng khi phát xít Đức tấn công Pháp, Sartre bị tổng động viên và ra mặt trận. Triết gia trẻ ngày nào cũng viết thư cho “con hải ly mê hồn yêu quý” - biệt hiệu của Beauvoir do một nhóm sinh viên triết đặt từ năm bà 21 tuổi, họ nói từ Beauvoir rất giống từ Beaver (con hải ly) trong tiếng Anh.
Trong chiến đấu, Sartre bị quân Đức bắt làm tù binh, nhưng 1 năm sau ông được tha (1941). Trở lại Paris, Sartre tham gia phong trào chống phát xít, thường xuyên cùng các 'đồng chí' họp kín tại nhà mẹ của Beauvoir.
Trải qua những ngày đối mặt với cái chết, Sartre có dịp suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa của tồn tại cá nhân; tư duy đó đã giúp ông viết nên tác phẩm triết học quan trọng "Tồn tại và Hư vô" (L’Être et le Néant), xuất bản năm 1943.
Với tác phẩm ấy, ông được coi là người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) ở thế kỷ XX, triết lý mà chính ông trải nghiệm đến chết; nó cho rằng cái tồn tại không phải là khách thể mà là chủ thể, nó nhấn mạnh sự tồn tại của cá nhân, là căn cứ của mọi sự tồn tại khác.
Theo ông, tồn tại có trước bản chất (Existence precedes essence), ngược với tư tưởng của Platon. Cá nhân và tự do cá nhân được nâng lên tầm cao nhất.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa chủ nghĩa hiện sinh là “khuynh hướng triết học quan niệm con người là độc nhất và đơn độc trong một vũ trụ lãnh đạm, thậm chí thù nghịch; con người là tự do và chịu trách nhiệm về hành động của mình”. Từ điển Tân Hoa (Trung Quốc) với quan điểm Mác-xít cho rằng chủ nghĩa hiện sinh “phản ánh sự đồi bại thối nát và tâm lý bi quan tuyệt vọng của giai cấp tư sản thời đại chủ nghĩa đế quốc”.
Thời gian gần đây, cách đánh giá đó dần dần thay đổi, nhất là khi xem xét dưới quan điểm chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng giáo dục, người ta thấy có thể hấp thu được một số điều bổ ích từ triết học này. Công cuộc cải cách giáo dục của một số nước đã vận dụng triết học hiện sinh để nâng cao vai trò của học sinh trong mối quan hệ thầy trò.
Các khái niệm của triết lý hiện sinh được Soren Kierkegaard (1813-1855) đưa ra từ thế kỷ XIX, sau đó được Friedrich Nietzsche (1844-1900) và Martin Heidegger (1889-1976) kế tục. Sartre đã phát triển và hoàn chỉnh nó trong điều kiện cuộc sống nhân loại đã được hiện đại hóa ở thế kỷ XX.
Triết học hiện sinh có ảnh hưởng lớn trong 2 thập niên 50, 60 của thế kỷ XX; về sau, tuy bị các tư tưởng triết học chủ nghĩa kết cấu và chủ nghĩa hậu hiện đại che lấp, song Sartre vẫn được coi là nhà tư tưởng lớn đã phản ánh tinh thần của thời đại.
Năm 1964, Sartre được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải thưởng Nobel nhưng ông từ chối.
Ngoài ra, Sartre còn là nhà văn, nhà viết kịch. Tiểu thuyết "Buồn nôn" (La Nausée) xuất bản năm 1938 cùng nhiều tác phẩm khác đều đậm màu sắc hiện sinh.
Là bạn đời của ông, Beauvoir dĩ nhiên hăng hái ủng hộ triết lý ấy.
Sau chiến tranh, tháng 10-1946, Sartre và một số bạn bè sáng lập nguyệt san “Thời Hiện đại” (Les Temps modernes), Beauvoir cũng tham gia biên tập tờ báo này.
Sau khi Sartre trở thành triết gia và nhà văn nổi tiếng, nhiều người cho rằng Beauvoir “núp bóng” Sartre. Điều đó làm bà có chút bực mình. Có lần bà nói: “Tại sao chẳng ai cho rằng Sartre là bạn đời của Beauvoir nhỉ?”

Năm 1949, Beauvoir xuất bản tác phẩm "Giới tính thứ hai" (Le deuxième sexe) nhằm vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới - chiếm một nửa nhân loại. Cuốn sách trình bày những quan điểm, lý luận và đưa ra các hình thức đấu tranh giành nữ quyền. “Không phải người ta sinh ra đã là đàn bà” - Beauvoir viết.
Bà nói: xưa nay phụ nữ bị coi là “thuộc một giống khác” với đàn ông, nói cách khác, là loại người “thứ yếu” bên cạnh loại người “chủ yếu”; quan điểm này là kết quả do hoàn cảnh lịch sử và xã hội tạo ra, chứ không liên quan gì tới thiên tính nữ; chỉ bằng cách làm việc và có nghề nghiệp, người phụ nữ mới có thể giành được sự tôn trọng của xã hội...
Giới tính thứ hai đã gây ra một cuộc tranh cãi sôi nổi ở Pháp; nó được các nhà hoạt động nữ quyền trên khắp thế giới, nhất là Mỹ, nhiệt liệt hoan nghênh. Tác phẩm nhanh chóng được dịch ra 19 thứ ngôn ngữ khác. Tại Mỹ, nó trở thành sách gối đầu giường của những người theo phong trào nữ quyền, và Beauvoir được gọi là "Bà mẹ của phong trào nữ quyền".
Không chỉ đấu tranh giành quyền cho phụ nữ, bà còn hăng hái chống chủ nghĩa thực dân, vạch trần tội ác của quân đội Pháp tại Algeria, chống chiến tranh do Mỹ gây ra tại Việt Nam. Chính nhờ sự đấu tranh kiên trì của bà mà quyền tự do phá thai sau này được pháp luật nhiều nước thừa nhận; đây là một thắng lợi lớn góp phần quan trọng giải phóng phụ nữ.
“Bà ấy đã mở ra cánh cửa giải thoát cho phụ nữ toàn thế giới… Tác phẩm của Beauvoir đã làm thay đổi số phận của hàng trăm triệu người” - Kate Millett - nhà hoạt động nữ quyền người Mỹ nói.
Beauvoir còn viết truyện dài "Các vị quan" (Les Mandarins) kể lại đời sống giới trí thức cao cấp ngụ tại khu Saint-Germain (Paris) sau đại chiến II. Tiểu thuyết được giải thưởng văn học danh giá nhất nước Pháp - giải Goncourt năm 1954. "Các vị quan" phác thảo bức tranh một số nhà trí thức theo chủ nghĩa xã hội ngoài đảng cộng sản, mong muốn xây dựng một châu Âu XHCN sau đại chiến II nhằm tránh xảy ra cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô với Mỹ.
Beauvoir rất thích du lịch và hầu như đã đi khắp thế giới. Chuyến thăm Mỹ của bà được thể hiện trong cuốn "Châu Mỹ sống gấp" (L’Amérique au jour le jour) xuất bản năm 1948. Tác phẩm "Trường chinh" (La Longue Marche, 1957) kể lại chuyến thăm Trung Quốc cùng với Sartre.
Một năm sau khi Sartre mất, Beauvoir xuất bản cuốn "Lễ vĩnh biệt" (La Cérémonie des adieux, 1981), kể lại 10 năm cuối, khi ông bà chung sống vì hồi ấy Sartre hầu như đã mù hẳn. Sartre mất ngày 15-4-1980. Sáu năm sau, Beauvoir qua đời vào ngày 14- 4. Mộ bà được đặt ngay bên cạnh mộ Sartre trong nghĩa trang Montparnasse.

Sau khi qua đời, bà càng nổi tiếng hơn trước, không chỉ vì đã đặt nền móng cho phong trào nữ quyền, mà do bà được coi là một trong số những nhà tư tưởng quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp. Di sản Beauvoir để lại rất to lớn.

Được bè bạn thúc giục, năm 1983, tức một năm trước khi qua đời, Beauvoir xuất bản tập thư tình Sartre viết cho bà từ những ngày ông nhập ngũ. Cuốn sách có tựa đề "Thư gửi Hải Ly". Những bức thư thật cảm động, lai láng tình yêu dành cho bà.
Chỉ tiếc người đọc không có dịp thưởng thức những bức thư trả lời của Beauvoir - được viết bởi ngòi bút của người được gọi là "bà mẹ của phong trào nữ quyền".

Nguyễn Hải Hoành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét