28 thg 1, 2009

Về Kinh Bắc (Nhịp 6)


Nhịp sáu
Điểm trang

Những hội hè Kinh Bắc
Có thi nhau giật giải pháo toàn hồng

Thi sợi bún
Thi sợi bún
Khi quất
Quấn năm vòng cột đình
Không đứt
Giã bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
Đứt quãng hoa niên
Mai về lại dựng giường dựng chiếu
Lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp
Ơi đêm Đông Hồ
Nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan

Thi ăn mía thổi cơm
Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên
Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
Lồng khói tím
Lịm sang thu
Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa

Thi đánh đu
Luồn tay ôm say
Giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh

Thi hát đúm
Chiếc pháo xì loay hoay
Thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
Bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
Bến nhức gan tằm
Người bỏ chồng vào thi hát đúm
Chệnh choạng lối mưa
Nón quai thao úp bụng
Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
Gót chân bùn ngõ tối
Tuổi lội Tầy đường mới sống trâu
Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu

Thi dệt vải
Lòng Em phau phau
Tìm đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
Đèn rọi võ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang

Thi thêu gấm
Từ thuở bé biết đâu
Chim uyên chim thúy
Kim se dây mà rẽ thúy chia uyên
Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình
Ai luồn kim giải áo dở dang mơ
Chàng Lưu ứa nước mắt
Bước ra thềm hong mưa

Hội chen Nga Hoàng
Chen Nga Hoàng
Len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
Lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật
Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đình
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi... im lìm
Í ới... sao chìm
Đôi đôi ú tim... tìm
Oà ập... cánh chim... e ấp
Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng
Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh... tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
Gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
Vì tay ải tay ai
Chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
Như sững sờ nghìn tội
Biết lội về đâu
Cho qua cơn thịnh nộ sầu
Cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt
Tóc héo bưng đầu
Lùi lũi tiếc thời xa
Khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu
Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư gãy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi
Sân đình
Lại Thị Mầu í a tung tình
Rung rinh
Chờ...

Hội Gióng
Mùng Tám tháng Tư Không về hội Gióng cũng hư mất đời
(Ca dao)

Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi
Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây

Hội Long Khám
Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô
Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
Gặp ngay quan huyện khác
Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa
Hội vãn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức
Ni cô ơi
Hội Vân Hà
Lợn ba trăm cân
Kềnh xuân lún ngõ
Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương thì
Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối
Cỗ ba tầng
Giò lụa nổi
Giò mỡ chìm
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong
Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
Tìm mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
Sồi lụa thưởng
Mười lợn thi đi chật cổng đình cong
Đêm phường chèo trống giục
Vùi lấp nồi niêu
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo
Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
Vật vờ góc ban thờ
Chai con gậm giường rụt cổ
Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ
Hội tàn men quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau

Hội đền tám vua triều Lý
Hội đền tám-vua-triều-Lý
Còn đau thớ gỗ phượng rồng
Chen chúc khoảng trời thương nhớ
Tạnh thời gian
Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
Để thạch sùng vào bụng rỗng
Chép miệng vàng son ngút khói tan
Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về
Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nhìn trang sử ố
Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham
Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân
Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi...

Về Kinh Bắc (Nhịp 5)

Nhịp năm
Cỏ Bồng Thi

Chị đưa Em đến bến này
Cheo leo mỏm đá
Trước vực sau khe
Thòng lọng tơ gì quấn gót
Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi

Em vọng ai đâu mà hóa đá

Không trói mà không đi

không canh gà
không thu không
Mắt không mở đừng khép
Kìa dây muống dại kín Em rồi

Lắc đầu hoa tím rụng ngó rừng xanh

Em hỏi ngọn nguồn

Biết rồi
Thôi
nghe hoa tím hát

Ngày mười bảy tuổi
Chót chơi đố cỏ Bồng Thi
Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá
Ù ù gió thổi
Không canh gà
Không thu không...

Về Kinh Bắc (Nhịp 4)

Nhịp bốn
Rồi cùng đi tất cả
Những cuộc dọn nhà
Tuần du trang sử rách

Trai đời Trần
Các con trai đi cả
Nợ nước xóa ơn vua
Một đứa cắn đứt dây buồm
Thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử
Một đứa theo lốt chân hươu chạy
xục bóng thù gãy nát rừng Tuyên
Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô
Lùng mạch sóng đoạt lương
Nghìn hộc thóc
Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu
Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu
Lê thê từng vệt đến Yên Kinh
Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
Tìm ẩn nẻo Chí Linh
Gặp mũi tên lạc gió
Chết trong xó núi
Vợ không kịp chôn chồng
Lại lõng thõng đôi bồ chạy giạt
Còn đứa cuối cùng mười bốn tuổi
Gói rau xam rau má
Ruộng nhà chấm muối
Côn Võ Tòng thẳng tới miệng beo gầm
Gái Hậu Lê
Dây lạc tiên vắt qua tường đổ
Đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly
Sợi tóc ba nghìn dặm
Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi
Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu
dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái
Sét đánh phía kinh kỳ
Biến mất Vọng Tiên lâu
Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát
Cô gái điên
Ôm xác chồng
Lội đồng chiêm
Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa
Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng
Từng đêm vuốt bụng
Nổi vết bào thai
Khóc âm y trước lúc ra đời
Đứa trẻ
Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách
Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối
Thôi con về ở với cha
Con về Giấu giếm những bàn tay
Nâng vú
So đũa
Lau mắt
Phơi dây áo thềm sân
Bố chặt cây sung cây khế
Cắm mía mía không lên
Nắng bừng lùm ớt chỉ thiên
Ai trồng mà mọc
Đến một ngày nhà đông khách
Khen con ngoan
(... con ngoan!)
Kiến mở cờ trên mẹt đường phên
Gấc đỏ mặt ngoài vườn
Gặt non nếp dự
Con trẻ tung tăng nhà đám
Nấp chân cây rơm
Dùi xe điếu
Trợn mắt
Thổi căng tròn bong bóng lợn
Cười nô ngoài ngõ
Nhận chị nhận em
Nhận thêm chú bác ông bà
Những người đâu ta
(... đâu xa...)
Thoáng đã chiều hôm thảng thốt
Lạnh so
Em gánh gạo về dinh phú hộ

Nứt vai thành sẹo lá lan đa
Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đã rách vá gì cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân
Tung toé dội gầu trăng nước giếng
Mát lùa kẽ tóc
Còn bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc
Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu
Dòng dây vục mãi đêm hồ tinh
Ấp vú mình trần con dế trũi
Cành tre rải áo nép thân hình
Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi
Ai rình Em
Ai ngó Em
Chợt rùng mình níu đêm trần trụi
Gai đâm xiên mười ngón ân tình

Đếm sao
Mài cạnh mảnh gương mới vỡ
Đến bao giờ tròn
Đừng cứa tay mình câu hát ơi
Một tiếng buông khoan giữa nhịp
Vì chơi với điệu lúc tàn trăng
Ai ngờ để lòng Em muối đổ
Đông đoài đuổi mãi sao Hôm
Một thoáng gật đầu
Giữa trời gãy cánh
Nửa mắt nhìn chênh
Giếng cạn mùa mưa
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
...
Đếm chưa xong
Em chớ gật đầu
Câu hát theo người leo ngọn thác

Đếm nắng
Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng
Tiếng gì dưới ấy
có phải tiếng vang
Tìm tiếng vang mình
Chui vào cửa hẹp
Cửa khép
Trách gì ai sáo trúc gây mê
Trách gì ai cặm cụi vót tre
Đan lồng vàng tía
Ngỡ trời mây trăm sắc ước ao
Chị bỏ Em đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
Hát lừng ngọn gió
Khóc đỏ chiều quê
Nhớ về mắt Em
Ới thương là thương
Động gót mưa xuân
Cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
Cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương

Đếm giờ
May cho Em tấm áo sồi non

Làng không mở hội
Cất cho Em hương quế nước trầm
Thẫm đường má răn
Chim vàng phải tên dưới bụng
Giận mình bay quá cao
Bướm ngũ sắc rã rời tay trẻ xé
Trách mình quá lộng nắng tàn xuân
Trốn tiếng Chị cười
Nấp mắt Em trông
Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo
Mát chân rời rợi
Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan
Đừng vẽ hình Em hoa đào hoa lý
Đừng hát tình Em sóng vỗ mưa về
Đừng tạc mặt Em lệch mái thùy cung
Đợi sau khi Em qua đời
Sẻ đồng thành phượng núi
Cây đa đường xứ
Lớn lên ai hay
Vẫn cơn gió cũ
Bao nhiêu chiều vụn đá
Mắt nắng thay mùa mở lộc non

Theo đuổi
Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
Đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
Ánh giăng đầm thấm đường sương
Ấy bởi thương Em
Vườn khô bỏ ngỏ
Gió vào ra bưởi trụi hồng thui
Ấy bởi thương Em
Mái nhà um cỏ
Chim vào ra vách đứng cột ngồi
Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
Lại xót mắt Em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay
Em đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà
Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng Em lại nổi
Đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào Em đợi
Đào giếng sâu rồi
Đừng lấp vội ngày xanh
Lý lý ơi khát khô cháy giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ
hở Em...

Về Kinh Bắc (Nhịp 3)

Nhịp ba
Rũ bụi gia phả
Bình pha lê nghiêng rượu
liệm đêm tàn

Đèn nhang 1
Ông già thả gậy
Bắc cầu phao vượt bến
Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều
Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử
Áo Hai Bà dăng mắc
Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương
Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân
Cụ tổ mười lăm đời
Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng
nhận gươm phương bắc chém
Cụ tổ mười đời
Lăn đá Chi Lăng
Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện
Gõ ba hồi trống
Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng
Cụ tổ chín đời
Mở trang Bình Ngô Đại Cáo
Nơi thôn xa ba chén chúc mừng
Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng
Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông
Ông tổ năm đời
Cáo quan dưỡng bệnh
Tóc trắng bồng bênh trước án
Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay
Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp
Dở khóc dở cười
Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng
Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc
Hũ rượu hoàng hoa
Hịch bốn trấn
Xé trang Luận Ngữ
Lau gươm
Lên đường
Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân
Kéo quân về cửa khuyết
Hỏi tội nghịch thần
Mắt Chúa đảo thiên
Kéo áo che ngai
Né mũi kiếm vô hình xốc tới
Phanh hầm nhét vội một vầng dương
Cắn nhọn móng tay
Thơ cùm lim khắc máu
Chợt nghe tin giặc dữ
Lấp sông san núi ùa sang
Vùng chặt xích bẻ gông
Phá cửa
Cướp ngựa Hình Tham tri
Phóng lên ải bắc
Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban
Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua

Đèn nhang 2
Dó lụa lật trang
Sang chữ triện quan tài
Bóng người cô ruột
Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi
Sông trôi xa còn ngoái về
Xem gót chân uyển chuyển
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc
Dịch sườn thông sang xúm xít
Quanh hàng mi
Nắng đọng hồ trong
Một sớm đi làm vương hậu
Cười rũ cỏ hoa
Rè tiếng trống chấp đòn khênh
Xà tích dấu đưa em
Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc
Nhìn mây về ngọn cau
Mái rạ thiu thiu
Đi
Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy
Níu cuộng lá vàng qua trận bom
Phân kim hạ kiệu
Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân
Mấy chục nguyên tiêu
Thời trân thưa thớt
Cơn trái nắng kén gì
Đúng lúc quả đào rơi
Vua băng hà
Đời hậu tắt sao băng
Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng
Chẳng dứt
Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa
Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh
Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch
Hồn ma đế bá cũng lang thang
Đói khát tình thương
Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống
Đêm doang tay
Mời vương hậu
Ngủ chung giường
Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang
Bàn tay quấn tóc khô
Che mặt
Về quê
Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy
Ngựa 1
Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên
Cắt thịt chia da
Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng
Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ
Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam
Dù gục khóc dưới chân thành
Đã mất giải khăn đào hứng lệ
Người đổi kiếp ra mô đất xám
Đắp thêm cho vững mái lầu hoa
Chiều nổi cung đàn phỉ thúy
Thong dong
Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân
Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp
San bằng đồi núi lô nhô
Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc
Tiếng hí dài
Ba lần triều đại đổi ngôi
Khoét thủng sáu lần nhung phục
Đập rập tám lọng vàng đô đốc
Cha truyền con nối
Đã xơ lơ
Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi
Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út
Bờm lông còn ướt
Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu
Nếp nếp áo chầu
Ngã rạp
Chiến thư
Dùng dắng
Tử sinh
Ai gặp lúc tuổi măng háu đá
Óc ngu phu giám mã
Chạm yên
Đau rức xương hông
Quằm gót
Thốc ngang sườn quật thây tổng quản
Hỏng rồi
Chiến trường không dụng
Đeo thẻ bài nhà Chúa
Ngẩn ngơ gặm cỏ
Quanh quanh cửa bắc cửa đông
Nhìn tít mù xa khanh tướng
Cờ bay bụi lốc
Nghe tin về lái ngựa quận công
Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ
Tiếng hí khải hoàn chìm lịm
Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn
Xương vụn kéo lên gò đống
Cháu bốn đời vỗ mả áp tai
Nghe tràng đạc rộn hoang vu
Còn thoảng khét mồ hôi
Ngày huyết chiến năm Thân
Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu
Đổ xuống bủng beo da thị rụng

Ngựa 2
Có một thời
Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ
Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi
Đàn lính ngựa vua nuôi
Bỗng lừ đôi mắt mỏi
Phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn
Đường nắng bay từng đám hoả hoàng
San sát rừng gươm
Gia Bình Bạch Hạc
Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc
Trước mặt cào cào rộn cánh
Tốc xiêm y trăm sắc cung tần
Trên lưng nắng hạn xém yên cương
Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình
Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến
Giặc cuồng vắt chân tháo chạy
Đầu lâu lăn lóc vó
Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy
Tít tắp
Từ Tiên Yên Hà Cối
Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh
Cũng từ thuở ấy
Cô gái quê thả tấm khăn điều
Bay nối đường tre liền ngọn thác
Bạc phau đổ xuống tự vòm mây
Mắt ướt môi se không nức nở
Răng đen rưng rức
Nghiến oán thù tím ngắt
Nắng Phong Châu
Cũng từ thuở ấy
Lính - ngựa vua nuôi gọi lính - người
Hội vật
Trống lớn Giảng Võ đường
Đội bổng vòm trời cao vót
Gió thượng du dội lại
Mưa trung du thốc sang
Bão hạ du dồn vang
Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu
Cong mái đỏ quanh thành
Kỳ xí đêm qua ủ gió
Sớm nay thả hết về nam
Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang
Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ
Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát
Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ
Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn
Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng
Vua kén người giỏi tiên phong
Vật núi núi lăn
Ngáng sông sông gãy
Gái thường dân Kinh Bắc
Tìm ai đây giỏi phận làm chồng
Hai tay căng sợi chỉ
Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ
Các ngả đường bụi đùn lốc nổi
Thác người đổ qua cửa ngọ
Cờ xua hết mây đi
Toà biếc lắng xem
Trống vẫn thúc
Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng
Loa vẫn rải
Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng
Chiêng lê thê sông Nhị
Dăng dài bãi mía bờ khoai đi
Một khắc cờ im gió đợi
Trai đô ùn đọng ngã tư thành
Ai từng buôn ngược bán xuôi
Chiều hoang rừng xế gặp hùm
Liều thân cứu mạng
Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi
Ai xuống bể mò ngọc trai
Tặng người yêu dấu
Né đuôi cá mập
Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn
Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống
Giỏi khoa vặn chệch hàm răng
Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây
Giỏi môn vặn cổ
Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử
Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương
Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô
Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa
ại kìa ai quen trộm gà bà thím
Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân
Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc
Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”
Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già
Loa càng dóng dả
Võ nghệ mười phương
Hồi hộp bắc đồng cân
Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất
Nhiễu xanh vắt hông
Cử vạc ba trăm cân
Nước đầy
Không sóng sánh
Rồi Bá Ngạc Tiên Du
Tư Đang Yên Dũng
Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà
Nghiêng mình thi lễ
Mắt trầm tư ngó vội khảo đài
Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay
Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong
Gạt dóng tre ngà
Cầm tấm mía nhai ròn
Thổi bã ngất trời bụi trắng
Đến Ba Ngư Siêu Loại
Trề môi khinh vạc lớn
Đứng tấn đại bàng
Lay voi đá cửa dinh
Nhấc bổng
Diễu hai vòng bãi rộng
Phong ba động biển reo hò
Gái nhà quan bố nuông
Cho giữ dịp
Bỗng để rơi dùi trống
Nín hơi nghe rần rật
Bão liên hồi
Trong búp lá măng tơ
Hồi cồng buông trấn lệnh
Từng đôi vào
Sư tử vờn quanh
Lên điệu "Bạch hầu đoạt trái"
Sang điệu "Hồng hạc tề phi"
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó
Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu
Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời
Nhiễu đỏ bên trái lên
Nhiễu xanh bên phải xuống
Nhoè bụi cuốn
Cột đồng dựng
Núi đá mọc
Ngón chân cày đất ba gang
Vạt cỏ đuôi gà bật rễ
Đất võ đài nhô lên lõm xuống
Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền
Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc
Vảy tê tê gạt gió
Xô về xem cuộc giao phong
Đã vào trận léo tay tư
Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm
Ối thôi
Bá Ngạc cắn môi vít gót
Bảy Kình nhắm mắt xuống bò
Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm
Tổng Dong nghiến răng ken két
Giật ngang mạng mỡ
Tử sinh là lúc này đây
Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng
Cồng chiêng thoi thóp
Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng
Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy
Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt
Mồ hôi người máu nến
Rụng song song
Rạng đông
Người toàn thắng bước ra
Ức vạn người xem khiếp sợ
Cuộc tàn tản mác cát lòng sông
Đô nhất là ai
Quê vùng đâu đó
Vươn tay chạm giời
Tóc hất sao mai
Quỳ xuống
Vọng về cửa khuyết
Lạy hai lạy
Lưng vàng rạp cỏ
Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi
Kén được một người
Nụ cười chếch đôi mắt lạ
Vồn vã đếnThong dong thua
Rồi lửng lơ đi
Vua kén đủ mười hai đô uý
Triệu về kinh ban yến năm đêm
Giọt rượu hồng hoen bố tử
Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ
Một lời khảng khái tung hô
Mai sớm kéo quân đi
Nghìn dặm lấn thành xa
Khúc quân thiều còn múa lượn
Vành tai sương cóng
Chiều tím bặt sa trường màu giun chết
Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa
Phơi mồi quạ xúm đen ngòm
Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa
Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa
Đêm vàng Kinh Bắc
Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu
Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung
Lính thú
Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ
Mười lần khấn gửi nước về xuôi
Lính thú đèo Mây
Vươn tay chém nứa
Xọc ngang sườn
Gục bên khe Vân tuyền nước đọng
Rừng khô thoảng động gót chân người
Quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây
Cô hàng xóm cũ ở riêng
Lạt cánh sen buộc nem lá chuối
cũng gửi quà xưa hội tháng giêng
Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông
Đòn gánh đã theo củi giạt
Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi
Cụm tóc lá sung lạt mở
Bến về nghe sợi đập làng xanh
Thôn cũ
Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng
Cung quăng đo thân cau
Vại nước lưng chừng
Đuôi nắng quệt ngang cành ớt
Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa...

Về Kinh Bắc (Nhịp 2)


Nhịp hai
Kiếp trước

Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử

Nắng phù sa
Người thơ kể
Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống
Dựng tre làng Cháy
Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu
Chuột thành than
Đen xạm dọc sông Hồng
Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Lúc gật đầu
Vó ngựa đào ao hồ
Liên tiếp mãi Đông Anh
Thiên vương chẳng nói
Lúc nghiêng tai
Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà
Hoa gạo các triền sông
Giải lối Sóc Sơn bay
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Chân Mẹ còn đê mê cát mịn
Hội Gióng dong chiêng
Bé em về nằm khoanh lòng mẹ
Nghe nghìn muôn năm sau
Xoa nắn đôi bầu vú lửa
Sông dài
Cát bỏng
Nắng hồng hoang
Gió lông ngỗng
Lông ngỗng trải bờ lau
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng
Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối
Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ
Cổ Loa cú rúc chòi canh
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
L...i...m...m
Ứ... !L...i...m...m
Ứ... !
Mất rồi
Mười bảy mười ba
An Dương Vương ôi
Bọt bể bồ hòn
Sương Cầu Lim
Chấp chới lá chè non
Cầu Lim Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu
Bỏ quê Xim
Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo sậu Phù Ninh
Rợp nắng
Về Thăng Long
Đá nghển trông con
Gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
Bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi
Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trõ nện ba hồi
Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo
Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết lòng chim sáo chim ri
Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi
Khói Yên Thế
Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế
Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay
Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề
Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ
Nhe răng cười
Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi...

Về Kinh Bắc (Nhịp 1)


VỀ KINH BẮC
Dâng hương hồn Mẹ

Ta con chim cu về gù dặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm
Ta ru em
lớn lên em đừng tìm Mẹ phía cơn mưa...

Nhịp một
Khấn nguyện
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Thổ
Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc

Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách Môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên Thai
Đi đâu
Tràng mày xếch vòng cung
Bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
HờNgõ cũ
Đêm xuống
Làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Kim
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười
nhớ thoảng quên
Hình nhân má điệp tóc mực tàu
Mắt nghiêng dựa liếp
Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu
Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa
Da trứng bóc
Giũ bụi tàn nhang
Phía đông kéo cưa xẻ gỗ
Phía tây chầy nện ván thiên
Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ
Rũ xô gai biển động tìm kim
Kèn già lam ai tập thổi
Gió mất chồi xuân đay nghiến lũy tre dầy
Năm ba gã trai tập bài lưu thủy
Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang
Qua miếu mưa phùn
Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại
Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo

Đêm Mộc
Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột lòng tay
Tràng pháo ròng thân cau mới bói
Tênh tênh chở đá Ba Vì
Tiếc gì nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân
Cói Thanh ép mỏng
Bao giờ lim gãy đá tan
Ngủ lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng nứt mạch tằm
Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
Súng lệnh gươm đao rậm rịch
Thua
Lá màn lay
Muỗi ngủ mê

Đêm Thủy
Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mõ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng rịt lá trường sinh
Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
Ong bay vai áo tiểu thon mình
Thập điện Diêm vương mở hội
Trong mắt trẻ lên năm
Trưa hè gãy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm

Đêm Hỏa
Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa
Ngón tay di sợi chỉ nâu
Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu
Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi
Võng mắc cành hồng chạc ổi
Kiều khàn
Dứt giọng nho sinh...
“buông mành...
Con oanh học nói...”
Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước
Hoa thui ngọn bí lông tơ
Đại hạn tháng ba
Lá lúa rang châu chấu
Mải dỗ con
Mắt cua nghênh giã cảnh giã người
Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão
cơm suông
Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ
Trăng lên chém đầu ngọn gió
Cành si bưng chậu máu chát chao
Cuối năm rì rầm tiếng khóc
Chàng ôi ngựa tía võng đào
Chợt mê thét giữa sân
Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng
Máu đổ
Mây đùn
Gió lộng
Sớm mai đi...

Về với ta


về với ta
Hoàng Cầm

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín...
Ta con chim cu
về gù dặng tre
đưa nắng ấu thơ
về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm...


Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều nay...


(trích Về Kinh Bắc)
Cổng làng Thổ Hà - ảnh: dongtac.net

Basho & Con đường hẹp thiên lý (4)


BASHO &
Con đường hẹp
thiên lý

IV.
Ở đó chúng tôi uống trà, hâm nóng rượu sake và cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp sầu thảm của cảnh đêm...

Kisakata
Thực không sao kể hết được những cảnh đẹp của đất và biển tôi đã ngắm; nhưng lúc này trái tim đập mạnh hồi hộp trước viễn cảnh được nhìn thấy Kisakata, đấy là một cái hồ nước mặn trứ danh trải dài khoảng 24 dặm về phía đông bắc hải cảng Sakata. Chúng tôi vượt qua những ngọn đồi và đi dọc theo bờ biển, lê bước qua những đun cát. Và lúc mặt trời đang khuất dần, chúng tôi đã đến nơi.
Một cơn gió nổi lên từ phía biển, đổ tràn vào không khí bụi cát và mang theo mưa, khiến thậm chí chúng tôi không thể nhìn thấy núi Chokai. Có một nỗi đắm say đầy tò mò khi đi dò dẫm trong lòng bóng tối và tưởng tượng ra những cảnh đẹp nằm trước mặt. Và cơn mưa mang lời hứa hẹn một cảnh còn đẹp hơn so với lúc trời quang thường ngày. Chúng tôi len lỏi qua những mái lều lợp bấc của dân đánh cá chờ cơn mưa ngớt.
Sáng hôm sau trời quang không một gợn mây. Và lúc mặt trời mọc, ánh sáng toả ra rực rỡ. Chúng tôi xuống một chiếc thuyền ra đi trên lòng hồ.
Ghé thăm hòn đảo của Noin, nơi vị thi sĩ - thiền sư đã sống ẩn dật suốt ba năm, rồi chúng tôi đi lên bờ một hòn đảo nằm ngay phía sau. Ở đó có một cây anh đào cổ thụ. Nó chính là cội cây đã soi bóng xuống mặt nước và hiện lên trong thơ của Saigyo:
Lái thuyền trên thảm hoa anh đào
Những người ngư phủ ra đi
Cây anh đào ấy là một tượng đài sống của thơ.
Trên bờ hồ nước mặn có một ngôi mộ theo truyền tụng, là nơi chôn cất Hoàng hậu Jingu (nhiếp chính từ 201-269). Đền thờ ấy gọi là Kanmanju-Ji. Tôi chưa nghe ai nói vị Hoàng hậu này từng đến nơi đây, nên cứ tự hỏi tại sao bà lại được an táng ở đó.
Chúng tôi ngồi nghỉ trong trai phòng Tu viện trưởng ngôi đền. Và lúc tấm màn dệt bằng tre cùng gấm thêu kim tuyến được kéo lên, toàn bộ cảnh hồ Kisa lộ ra trước mắt.
Về hướng nam, núi Chokai nom như đang chỉ thẳng lên trời và bóng núi hằn trên mặt nước. Về phía tây con đường bị chặn bởi thành luỹ Uyamuya, nhưng phía đông một con đê đưa con đường đi dài tít tắp hướng đến Akita. Biển trải dài theo hướng bắc và nơi bắt đầu hồ nước gọi là Shiogoshi, hay Con đường nước triều.
Mặc dù hồ nước mặn Kisakata chỉ dài hơn hai dặm, rộng hai dặm, nó vẫn gợi lên nỗi nhớ về Matsushima. Nhưng ở vài điểm nó hoàn toàn khác. Trong lúc Matsushima có vẻ đẹp vui nhộn, hớn hở thì Kisakata đầy tràn đắng cay và ăn năn hối hận. Có cảm giác đơn côi hoang vắng và ưu phiền nơi một tâm hồn quằn quại day dứt.
Mưa ở Kisakata
Cây trinh nữ lả xuống
Như nàng Tây Thi trinh liệt mang vết thương lòng

Bức hoạ biển lạnh, dăm con hạc
Đôi chân dài lội qua hồ nước
Thấp thoáng đụn cát trên Con đường nước triều.
Bài thơ Sora viết nhân dịp lễ hội Shiogoshi:
Tôi tự hỏi họ ăn gì
Trong ngày lễ Shiogoshi?
(Bài thơ này Sora viết vì nỗi xúc động trước cảnh một gia đình nghèo kê một cánh cửa gỗ và ngồi lên đó – căn nhà xoàng không mái che)
Nơi trú thân nghèo ngư phủ
Một tấm ván nằm trên cát
Nhấm nháp khí lạnh trời đêm
(Teiji - một thương nhân tỉnh Mino)
Ngắm một cặp chim ưng làm tổ trên vách đá gần bờ biển, Sora viết:
Tổ trên vách đá cheo leo
Ghim lại muôn sóng trùng dương
Phải không hỡi ưng biển?
Con đường miền bắc
Chúng tôi nấn ná mấy ngày ở Sakât đến khi những đám mây rợp trên Con đường miền bắc giơ tay vẫy gọi. Thế nhưng trái tin lại xao động khi nghĩ tới con đường xa vời vợi nằm phía trước; nghe nói nó dài đến ba trăm dặm mới tới thủ phủ tỉnh Kaga.
Sau khi vượt qua Thành luỹ Nezu tiến vào tỉnh Echigo, chúng tôi lên đường với một quyết tâm mạnh mẽ. Sau cùng, tới thành luỹ Ichiburi tỉnh Etchu. Chúng tôi đã lang thang trên đường chí ngày. Trong khi bầu không khí ngột ngạt nóng và mưa, vết thương ngày xưa đau nhức, nhưng tôi không viết về chúng.
Đêm trước ngày Ngâu!
Mai, Ngưu Lang gặp Chức Nữ
Hai vì sao - tình nhân

Bụi nước đại dương man dại
Phủ mọi nẻo đường đến Sado
Ngân Hà trải rộng!
Hôm nay chúng tôi đi qua những nơi hiểm nguy nhất trên toàn miền bắc. Con đường bất trắc đưa qua những tảng đá mòn dưới chân một mũi đá cong vểnh làm mồi cho những con sóng lớn. Như chuỗi tên của những nơi tồi tệ nhất ám chỉ, nó do mọi người tự đặt cho cảnh ngộ chính mình:
‘’Bỏ cha, Bỏ con, Những con chó quay đầu, Gửi lại ngựa của bạn’’.
Chúng tôi kiệt sức và đi nằm sớm. Nhưng trong căn buồng kế bên, tôi nghe vẳng tiếng, mà theo phán đoán, là của hai phụ nữ trẻ. Một giọng đàn ông xen vào tiếng nói của họ. Tôi hiểu ra họ là hai kỹ nữ tới từ một thị trấn cảng tên Niigata thuộc tỉnh Echigo trong một chuyến hành hương về Đền thờ lớn ở Ise. Người đàn ông đi cùng họ từ nơi xa xôi tới đây và họ đang viết những bức thư để người này mang trở lại Niigata vào ngày mai. Những lời họ tâm sự với anh ta chứa chan bao xúc động. Khi lắng nghe, tôi cũng thêu dệt giữa những lời thì thầm của họ âm hưởng một bài thơ do một kỹ nữ sang trọng làm trước đây:
Nơi những con sóng
Tung bọt màu trắng vỗ bờ
Thân em suốt đời như rong biển
Như người ngư phủ không nhà
Những cuộc tình lang chạ đêm đêm
Là nghiệp, là số mệnh
Cảnh ngộ buồn đau, buồn đau
Em đã rơi vào.
Và tôi chìm vào giấc ngủ trong lúc lắng nghe họ nói chuyện. Sớm hôm sau, lúc chúng tôi sắp sửa khởi hành, một phụ nữ trẻ chạy tới. Nàng nói:
Chúng tôi không biết đường. Chúng tôi tuyệt vọng và sợ hãi. Các thày có thể cho chúng tôi theo bước ở một khoảng cách không gây ô uế không? Những giọt nước mắt của nàng lăn trên gò má. – Xin hãy rộng lượng với chúng tôi. Chúng tôi cầu xin các thày một lòng vị tha và thương xót của người tu hành để chính mình có thể cảm thấy sự cứu độ từ Đức Phật.
Tôi đáp:
Tôi sợ rằng chúng tôi thường hay dừng lại dọc đường. Nhưng sẽ có nhiều người khác dẫn các cô đi. Có thể Đức Phật sẽ giúp các cô.
Rất lâu sau khi tôi từ biệt họ, trái tim tôi ngập tràn thương xót và hình ảnh họ không sao ra khỏi tâm trí.
Dưới mái nhà tương tự thế này
Còn hồ nghi ư, tôi ngủ cạnh một kĩ nữ
Như mặt trăng cùng bụi cỏ ba lá.
Tôi đọc cho Sora. Tiên sinh chép lại.

Nago-No-Ura
Chúng tôi lội qua bốn mươi tám dòng suối của vùng châu thổ sông Kurobe, nhưng vùng này vẫn còn vô số những con sông, con suối khác. Cuối cùng tới bờ biển Nago.
‘’Những cây đậu tía dập dờn’’ vùng Tako của thi sĩ Manyoshu cách đây không xa. Cho dù xuân đã qua, chúng tôi vẫn nghĩ được ngắm nhìn những dây leo bò ngoằn ngòeo thế nào trong tiết đầu thu ở đó cũng rất kỳ thú. Vì vậy tôi hỏi đường một người.
Anh ta trả lời:
- Cách đây chừng mười hai dặm theo bờ biển, trong chỗ khuất gió ngọn đồi đằng kia. Nhưng ở đó rất ít nhà, chỉ có những mái lều ngư phủ. Thầy sẽ không tìm được ai cho thuê chỗ trọ đâu.
Anh ta ra sức gàn khiến chúng tôi đi thẳng tới tỉnh Kaga.
Những cánh đồng ngát hương lúa sớm
Chúng tôi đi qua
Bên gió biển Ariso


Kanazawa
Sau khi qua Đồi hoa tuyết và Thung lũng Kurikara, ngày 15/7 Âm lịch (30/8) chúng tôi tới một thành phố lớn tên Kanazawa. Kasho, một thương nhân quen biết, người thường đến dây từ Osaka cũng có mặt. Chúng tôi gặp ông tại nơi ông trọ.
Issho, một thi sĩ trẻ danh tiếng trong vùng, rất mê thể thơ liên hoàn, đã mất vào mùa đông năm trước. Người anh trai của Isso chủ trì buổi cúng giỗ em mình. Isso là học trò của tôi và cả hai chúng tôi đã từng hân hoan ngắm trăng thu với nhau. Tôi viết ở ngôi mộ:
Tiếng thở dài gió thu
Là tiếng nức nở tim tôi cay đắng
Hãy lật tung nắm đất! Hãy lên tiếng!
Chúng tôi được mời tới một nơi ẩn tu:
Trời thu mát lạnh!
Tôi gọt vỏ,
Thấm vào vị của lê, dưa hấu
Một bài thơ soạn trên đường:
Mặt trời nóng bỏng thế kia
Lờ đi
Cơn gió thu đang nổi
Và tại một địa danh gọi là Komatsu, hay Rừng thông bé nhỏ:
Luồng gió thu thổi qua
Những cây thông nhỏ
Cỏ ba lá và bông bạc

Đền Tada
Ở Komatsu, chúng tôi viếng thăm đền Tada. Tại ngôi đền chúng tôi xem cái mũ sắt của chiến binh Sanemori (1111-1183) và một mảnh áo giáp thêu kim tuyến của ông. Nghe nói những thứ này ông được Đức ông Yoshimoto của vùng Minamoto ban tặng khi phục vụ cùng với gia tộc Genji.
Cái mũ sắt không phải vật tầm thường. Từ đỉnh mũ cho đến vành uốn vòng phía sau tai được trang trí bởi những dải hoa cúc uốn lượn bằng vàng. Chóp mũ hình đầu rồng, và những chiếc sừng phẳng, mềm mại thật thanh nhã, kiêu hãnh.
Khi Sanemori ngã xuống trong chiến trận, Kiso-Yoshinaka sai Jiro của vùng Higuchi dâng những vật này cho ngôi đền. Tất cả đều được lưu giữ đầy đủ trong cuốn sử biên niên ở ngôi đền này.
Ôi bi thảm,
Bên dưới mũ chiến binh quả cảm
Tiếng châu chấu.

Nata-Dera
Trên con đường tới suối nước nóng Yamanaka, có thể nhìn thấy Shirane-Ga-Take, hay Núi trắng. Đi đường nào cũng thấy ngọn núi này phía sau lưng. Bên trái, trong dãy đồi ở chân núi có một ngôi đền thờ Kannon - Vị nữ thần của lòng nhân từ. Hoàng đế Kazan (cầm quyền 968-1008), sau chuyến hành hương qua ba mươi ba địa điểm linh thiêng các tỉnh miền tây, đã được khuyên hãy đặt vào đây hình ảnh của Kannon - Người nhân từ nhất, Vị Bồ tát của lòng trắc ẩn và tình yêu thương. Hoàng đế gọi ngôi đền là Nata, cấu tạo từ những chữ cái đầu của Nachi và Tanigumi, tên hai địa danh đầu tiên và cuối cùng của ba mươi ba nơi linh địa.
Giữa những tảng đá có hình dáng kì dị được sắp xếp và những cây thông cổ thụ thân chằng chịt mấu, có một nơi ẩn tu nhỏ, mái rạ dựng trên một tảng đá. Thời gian mài trắng nên vẻ thanh sạch nơi những tảng đá mòn mang lại cho nơi này một nép đẹp buồn bã vượt hơn cả đền Ishiyama danh tiếng ở Omi.
Đá ở Ishiyama
Chưa muốt trắng
Gió mùa thu, trắng hơn!

Suối khoáng Yamanaka
Chúng tôi đi tắm suối nóng Yamanaka. Mọi người thường nói về mặt chữa bệnh con suối này chỉ đứng hàng thứ nhì so với các suối nóng vùng Ariake.
Nước suối Yamanaka
Tuyệt diệu hơn
Những bông cúc hoa!
Chủ quán trọ còn trẻ, tên là Kumenosuke. Cha anh ta nghe nói rất yêu thơ. Và ở đây, câu chuyện xoay quanh chuyện một thi sĩ trẻ tuổi đắm đuối đến từ Kyoto đã bị quá bẽ mặt bởi tài năng thơ hơn hẳn của người chủ quán như thế nào. Khi quay lại Kyoto, anh ta đem theo bài học ấy từ Teitoku, tiếp tục làm thơ và trở nên nổi tiếng dưới cái tên Teishitsu mà chúng tôi có nghe nói đến. Khi đã danh tiếng, người ta nói rằng ông không bao giờ nhận tiền thù lao từ những người dân quê cho việc phê bình và sửa thơ giùm họ.
Sora bị ốm. Vì tiên sinh có họ hàng ở Nagashima, tỉnh Ise nên chúng tôi quyết định để tiên sinh đi trước.
Một kẻ lang bạt đơn côi
Nếu nằm xuống xin cho tôi
Giữa bụi cỏ ba lá
Sora viết bài ấy trước khi từ biệt.
Với nỗi buồn kẻ đi, người ở, chúng tôi như đôi ngỗng trời chia tay nhau và rồi mất hút nơi những tầng mây. Tôi viết:
Giọt lệ sương thu
Sẽ làm nhoè trên mũ dòng chữ
‘’Hai bạn cùng du hành’’

Zensho - Ji
Tôi nghỉ đêm trong ngôi đền Zensho-Ji nằm ven thị trấn Daishoji. Nơi này vẫn thuộc tỉnh Kaga. Sora đã nghỉ đêm trong ngôi đền này đêm trước và để lại bài thơ:
Suốt đêm
Tôi nghe gió thu
Thổi qua những mỏm đồi quạnh vắng.
Chúng tôi xa nhau có một đêm mà sao như ngàn dặm. Tôi cũng nằm thao thức lắng nghe gió thu. Rạng sáng có tiếng các vị sư đọc kinh. Thế rồi một tiếng chuông vang lên và tất cả chúng tôi xuống bếp.
Vì tôi có ý định tới tỉnh Echizen trong ngày hôm đó nên vội vã ra đi. Một vị sư trẻ tuổi chạy xuống trước mặt mang theo giấy và mực. Ngay lúc đó, một vài nhành lá liễu từ cội cây trong vườn chấp bay xuống đất.
Lòng tốt của bạn, xin báo đền
Tôi có thể quét lá rơi
Nơi gốc liễu!
Đôi dép rơm đã buộc chặt quai, vậy nên tôi không kịp đọc lại những dòng viết vội ấy của mình nữa.
Con đường tới Eihei-Ji
Vượt qua cái miệng vịnh hẹp Yoshizaki nằm trên biên giới tỉnh Echizen bằng thuyền, chúng tôi dừng lại ngắm rừng thông trứ danh của Shiogoshi
Cơn bão lớn tàn phá
Suốt đêm hoang dại
Gió sóng nổi lên
Ở Shiogoshi, rừng thông trên cồn
Vươn lá cành vào mặt trăng.

Saigyo
Có rất nhiều bài thơ được viết ở đây, nhưng không thêm bài mới nào đáng đọng lại để ngợi ca cảnh đẹp này. Viết thêm một từ nữa về rừng thông Shiogoshi thì cũng tựa như thêm ngón tay thứ sau vào bàn tay.
Sư trưởng đền Tenryu của thị trấn Maruoka là một người tôi quen đã nhiều năm. Do vậy tôi đến thăm ông. Lúc ấy có Hokushi, người đi cùng chúng tôi từ Kanazawa. Anh ta chỉ có ý định đi tiễn một đoạn đường, nhưng cuối cùng lại theo chúng tôi đi khắp nơi tới tận Maruoka. Trên đường đi anh ta không bỏ qua một cảnh đẹp nào và luôn soạn những vần thơ. Một số bài rất sâu sắc. Tôi viết một bài thơ lúc chia tay:
Tôi viết nguệch ngoạc đôi dòng
Và xé tan chiếc quạt hè thân thuộc
Chỉ một khúc thâm tình buổi chia tay!
Đi bộ khoảng ba dặm rưỡi về phía dãy đồi là tới Eihei-Ji. Ngôi đền này do thiền sư Dogen (1200-1253) lập nên. Tôi tin rằng ngài đã có một duyên cớ cao cả nào đó khi lập ra ngôi đền rất sâu trong vùng đồi và nổi tiếng bên ngoài ngàn dặm của cố đô Kyoto.

Fukui và Tsuruga
Dầu cho đường đi tới thành Fukui dài bảy dặm, tôi vẫn để sau bữa tối mới lên đường. Và tôi cập quạng dò đường trong bóng tối.
Ở Fukui có một người tên là Tosai sống ẩn dật từ lâu. Tôi gặp ông một lần ở Edo, nhưng đã hơn mười năm về trước. Giờ đây hẳn ông đã già lắm, tôi nghĩ hay có khi đã khuất núi. Tuy nhiên khi hỏi thăm mọi người, họ đều nói ông còn sống và chỉ cho tôi chỗ ở của ông.
Trên lối đi nhỏ yên tĩnh, cách biệt với tiếng ồn ào đô thị, tôi tìm thấy một mái lều nhỏ, xoang xĩnh nằm giữa đám dây cúc bạc và mướp bò ngoằn ngoèo. Cái cổng bị những cây mào gà và bách che kín. Tôi nghĩ chắc là đây rồi và gõ cửa. Một người phụ nữ ăn vận xoàng xĩnh bước ra:
Cơn gió nào đưa thày tới đây? Bà ta hỏi rồi tiếp tục. Tiên sinh đã qua nhà một người bạn gần đây. Nếu thày muốn gặp tôi sẽ đi tìm.
Tôi đoán bà ta là vợ. Chuyện này cũng giống với một cảnh trong ‘’Câu chuyện về Genji’’. Tôi nghĩ lúc trên đường tìm ông.
Tôi ở nhà Tosai hai đêm. Sau đó tôi nói tôi phải đi vì muốn ngắm trăng Trung thu ở cảng Tsuruga. Tosai khăng khăng muốn đi cùng. Và rồi vén gọn kimono, quấn thắt lưng, ông vui vẻ ra đi như một người hướng đạo cho tôi. Cứ lần lượt, hết Shirane-Ga-Take (Núi bạc) khuất dạng thì ngọn Hino lại hiện ra. Chúng tôi băng qua cây cầu ở Asamuzu thường được nhắc đến trong các bài thơ, nơi những cây lau của Tamae đã nở hoa. Vượt qua Luỹ chim sẻ bụi rậm và cắt ngang Suối nóng, chúng tôi nghe vẳng tiếng gọi của bầy ngỗng trời đầu tiên ở Hiuchi-Ga-Jo (Thành đá lửa), sau đó ở Kaeru-Yâm (hay Đôi ngỗng trở về). Đêm 14/8 Âm lịch (28/9) chúng tôi tới cảng Tsuruga và đi tìm một quán trọ.
Đêm đó trăng sáng khắp trời một cách dị thường. Tôi hỏi:
- Đêm mai trời sẽ thế này chứ?
Nhưng người chủ quán trọ đáp:
- Ở đây, xứ bắc này, không bao giờ có thể nói chắc chắn thời tiết sẽ đẹp, hay nhiều mây vào ngày hôm sau.
Chúng tôi uống rượu vang cùng người chủ quán trọ. Sau đó cả đêm bọn tôi cùng đến thăm đền Myojin ở Kehi, nơi Hoàng đế Chuai (cầm quyền 192-200) được an táng.
Ở ngôi đền, bầu không khí linh thiêng, và trong ánh trăng lọt qua những tán lá thông, cát trắng rải trước ngôi đền trông tựa như sương. Người chủ quán trọ bảo:
Từ xa xưa, vị kế nhiệm người Đạo trưởng giáo phái này, tổ sư thứ hai với ước muốn giúp đỡ tín đồ đã tự mình giẫy sạch cỏ, rồi khuân đất đá lấp những đầm lầy xung quanh, để từ đó về sau những người đến đền đi lại được dễ dàng. Tưởng nhớ đến công việc vĩ đại đó, thậm chí tận ngày nay, sư trưởng của giáo phái Shinto-Jishu vẫn mang cát rải khắp ngôi đền. Lễ kỉ niệm này gọi là ‘’Lễ sư trưởng mang cát’’
Thiêng liêng, trong sạch, trắng ngần
Những hạt cát sư trưởng rải
Sáng lên dưới ánh trăng!
Đêm rằm, đêm trăng tròn hiện diện, đúng như người chủ quán đã dự đoán, trời đổ mưa.
Ôi! Kém phúc là tôi
Đêm trăng rằm lại mưa
Thất thường, trời xứ bắc!

Iro-No-Hama
Ngày 16-8 Âm lịch (30-9) trời thật đẹp. Tôi muốn đi lượm một vài vỏ sò nhỏ màu hồng nên cả bọn cùng đi thuyền đến Bãi biển hồng. Mười bảy dặm đi trên mặt nước, nhưng một người bạn tốt bụng tên là Tenya đã bỏ xuống thuyền chúng tôi những cái hộp đựng đò du lịch và những ống tre đựng rượu sake. Ông còn cho một vài người giúp việc đi theo. Một cơn gió thuận đã đưa chúng tôi đi trong loáng mắt.
Trên bãi biển này chỉ lưa thưa vài túp lều ngư phủ và một ngôi chùa thờ Phật trông tuềnh toàng của giáo phái Hokke. Ở đó chúng tôi uống trà, hâm nóng rượu sake và cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp sầu thảm của cảnh đêm:
Buồn hơn và
Đìu hiu hơn cả Suma
Là mùa thu bên bờ biển này

Mỗi cơn sóng tung bọt
Dạt lên bờ dãy vỏ sò nhỏ
Và cánh cỏ ba lá
Tôi bảo Tosai ghi lại cảm tưởng ngắn ngủi của một ngày phiêu du ngoài trời, rồi để lại ngôi đền.

Ogaki
Rotsu, một môn đệ của tôi, đến Tsuruga và cả hai chúng tôi cùng du hành đến tỉnh Mino. Chúng tôi đi ngựa đến thành Ogaki và Sora cũng đến đây nhập đoàn từ Ise. Etsujin cũng theo nhịp nước đại của ngựa đến và tất cả bọn tôi hội tụ ở nhà một Samurai đã hồi hưu là Joko.
Quí tộc Zensen, Samurai Keiho cùng các con trai của ông và một số bạn bè thân thiết khác liên tục đến đây trong cả ngày lẫn đêm để chúc mừng vẻ hân hoan và quan tâm ân cần. Cứ như thể tôi vừa từ cõi chết trở về.
Giờ đây, dẫu cho cơ thể chưa hồi phục hoàn toàn sau nỗi mệt nhọc của chuyến du hành, đã là ngày 6/9 Âm lịch (18/10) và tôi ước ao được đến đền Ise để dự lễ kỉ niệm cứ 21 năm mới tổ chức một lần, rước Chúa tể thần linh đến một ngôi đền mới dựng. Trời đã vào cuối thu nên tôi ra đi một lần nữa, bằng thuyền tới bờ biển Futagami-Ga-Ura, nơi có những con trai vị rất ngon. Thế mà trời hỡi,
Buồn đau, tôi chia tay bạn
Tựa thân trai lìa xa chiếc vỏ
Tôi đi và thu cũng cạn ngày.
(Hết)
Hàn Thủy Giang (dịch và giới thiệu)

Basho & Con đường hẹp thiên lý (3)

BASHO &
Con đường hẹp thiên lý

III.

Kasashima
Băng qua hai thành Abumizuri và Shiroishi, chúng tôi tiến vào tỉnh Kasashima. "Ngôi mộ của thi sĩ thế kỷ thứ 10 - Tướng Ngự lâm Hoàng gia Fujiwara-No-Sanekata ở đâu?" Chúng tôi dò hỏi và được mọi người cho biết: Ở chân dãy đồi phía xa bên phải là làng Minowa và Kasashima. Ở phía đó, chúng tôi sẽ tìm được đường tới Miếu thờ thần linh mà xưa kia lúc đi ngang qua Sanekata đã quên không xuống ngựa, và ngôi mộ cổ chôn cất ông sau khi ông bị quật ngã phũ phàng từ trên mình ngựa vì lần sơ ý nói trên. Cỏ đồng hoang đã trùm lên những nấm mộ, nhưng vẫn còn đó "duy đài kỉ niệm riêng ông", như thi sĩ Saigyo đã từng viết. Những cơn mưa khiến đường đi lầy lội, và tôi thấy trong người mỏi mệt. Do vậy chúng tôi chỉ nhìn vào Miếu thờ và ngôi mộ từ xa lúc đi ngang qua.
Những cái tên như Minowa, nghĩa là "Vòng áo mưa rơm", và Kasashima, nghĩa là "Đảo mũ mưa rơm", mới thích hợp với những trận mưa tháng sáu làm sao. Nảy ra ý đó tôi viết:
Đảo mũ mưa, hãy ngắm
Những con đường
Lầy lầy vì mưa tháng sáu!
Đêm đó chúng tôi nghỉ ở Iwanuma, tức "những đầm đá".

Cây thông Takekuma
Lúc nhìn thấy cây thông Takekuma danh tiếng, tôi như không thể tin nổi vào mắt mình. Từ xa xưa cây thông này mọc trên mặt đất, thân chia hai nhánh. Tôi nghĩ đến thi sĩ, thiền sư Noin sống ở thế kỉ thứ 10. Viên quan mới trị nhậm tỉnh Mutsu đem cưa và dùng nó làm những cột trụ cho cây cầu bắc qua sông Natori. Và Noin viết "Cây thông kia giờ chẳng còn dấu tích". Nhưng tôi nghe nói mỗi lần cây thông bị đốn hạ, một cây mới lại mọc lên. Cái cây này trông tựa như đã hàng ngàn tuổi. Ôi, cái cây mới lộng lẫy và tuyệt mỹ làm sao!
Lúc tôi rời Edo, Kyohaky có viết mấy dòng như quà tặng chia tay:
Dù vẻ hoang tàn của ngươi
Hỡi anh đào cuối vụ
Hãy cho Thầy ta xem thông Takekuma!
Còn tôi viết mấy dòng đáp lại tiên sinh:
Từ khi rặng anh đào cuối vụ nở hoa
Tôi khao khát xem cây thông hai nhánh
Dù còn ba tuần trăng!

Sendai
Chúng tôi qua sông Natori và đi vào thị trấn Sendai. Ngày 4/5 Âm lịch, một hôm trước ngày hội cây Irit. Những cuộng là cây Irit ngọt ngào toả hương ngan ngát đặt dưới mái hiên khiến mọi người dễ chịu. Chúng tôi tìm một quán trọ và ở lại vài ngày.
Ở Sendai có một hoạ sĩ tên là Kaemon. Chúng tôi nghe nói tiên sinh có gì đó rất thi sĩ, và tất cả chúng tôi trở nên bạn bè. Kaemon kể, gần nơi đây có rất nhiều địa điểm được nhắc đến trong thi ca, dấu tích của chúng gần như mất hết, nhưng tiên sinh đã phát hiện ra sau cuộc khảo sát kỳ công. Một bữa, tien sinh đưa chúng tôi đi thăm vài nơi.
Cỏ ba lá mọc từng bụi sum suê ở Miyagi - đồng hoang, đến nỗi tôi có thể mường tượng ra chúng sẽ đẹp đến nhường nào khi trời vào thu. Ở Tamada, Yokono và đồi Azalea những bụi hoa loa kèn nở rộ. Chúng tôi đi bộ xuyên qua một cánh rừng thông rậm rạp đến mức không một tia sáng mặt trời nào thâm nhập vào được. Nơi này được gọi rất chính xác là Kinoshita, hay "trong rừng rậm". Từ xa xưa nơi đây hẳn sương phải thẫm đặc, chả thế có thơ cổ:
Anh hầu, hãy nhắc quý ngài
Ở đây, đội mũ rơm che mưa
Trước lúc tàn ngày, chúng tôi cũng viếng thăm những nơi như đền thơ Yakushi - thầy thuốc tinh thần, và miếu thờ Tenjin.
Món quà Kaemon tặng chúng tôi lúc chia tay là tập bức họa tiên sinh vẽ ở rất nhiều nơi thuộc Matsushima và Shiogama. Tiên sinh cũng tặng mõi người một đôi dép rơm gắn quai da nhuộm màu xanh thẫm. Món quà ấy hé lộ một điều, tiên sinh quả là một thi sĩ.
Quai dép da thanh thiên
Chúng ta như đi bằng cây Irit
Sắc màu lộng lẫy!

Tảng đá Tsubo
Dùng những bức hoạ của Kaemon như người hướng đạo, chúng tôi tự mình tìm ra một con đường có tên Oku-No-Hosomichi, nghĩa là đường về Hosomichi. Con đường trải ngoằn ngoèo qua chân những ngọn đồi. Chúng tôi thấy nơi cây sậy nổi tiếng của Tofu mọc, cây sậy này thường được thi ca nhắc đến. Thậm chí tận bây giờ, nó vẫn được dệt thành thảm và tặng vị quí tộc chủ trang trại.
Tảng đá Tsubo sừng sững trên đất của thành Taga, trong ngôi làng Ichikawa. Tảng đá cao chừng ba mét, rộng mét rưỡi. Rêu phủ kín khiến hàng chữ khắc trên nó rất khó đọc. Sau khi thông báo con số chiều dài đường biên bao quanh tỉnh, nó còn ghi: "Thành này được Azuma-Udo - tướng quân quí tộc Ono - người được Hoàng đế cử tới các tỉnh miền Bắc, xây dựng vào năm thứ nhất niên hiệu Jinki (724). Nó được một thành viên Hội đồng Hoàng gia - tướng quân Asakari - quí tộc vùng Emi - người cai quản các tỉnh Đông Bắc tu sửa vào năm thứ 6 niên hiệu Temiyo-Hoji (762). Ngày 1/5 Âm lịch". Niên hiệu Jinki thuộc triều đạu Hoàng đế Shomu (cầm quyền 724-749).
Rất nhiều địa danh được nhắc đến trong thi ca, giờ phần lớn không còn được biết một cách chính xác nữa. Lở đất làm thay đổi thượng nguồn các con sông, xoá sạch những con đường và vùi chôn những đài kỉ niệm. Cây cối già cỗi héo tàn và thay vào đó là những cây non. Vì thế, bộ mặt đất đai đã biến đổi, nơi chốn của những địa danh lừng tiếng giờ trở nên mơ hồ. Nhưng ở đây không thế. Tượng đài này được dựng lên một ngàn năm trước đây, giờ vẫn còn, là một cầu nối sống động với quá khứ. Được nhìn ngắm nó là một trong những điều khiến cuộc viễn du của tôi rất đáng giá, là một trong những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của đời tôi. Lãng quên đi tất cả những thử thách gian nan của cuộc hành trình, tôi đã khóc vì một niềm vui chân thiện.


Sue-No-Matsuyama
Sau đó chúng tôi viếng thăm nhiều nơi mà thi ca đã làm cho nổi tiếng như suối Tama ở Noda, và tảng đá lớn Oki-No-Ishi nằm giữa lòng hồ. Ở Sue-No-Matsuyama - "Đồi thông cuối cùng" có một đền thờ. Tên đền thờ cũng giống như tên ngọn đồi, nhưng phát âm là Masshozan. Trên đồi, giữa những cây thông chẳng có gì ngoài những nấm mộ.
Các cặp tình nhân có thể thề thốt thuỷ chung mãi mãi, như đôi chim chung đôi cánh, như hai cội cây lá cành xoắn xuýt, vui sống bên nhau, không thể tách rời, nhưng rút cục họ cũng tới nơi này. Tôi suy tư. Lòng tràn ngập một nỗi muộn phiền, nó ở lại trong tôi và một tiếng chuông đền thờ gióng lên vào buổi tối hôm đó trên bờ biển Shiogama làm mọi điều trở nên sâu lắng hơn.
Những cơn mưa tháng sáu đã ngớt, vầng trăng nhợt nhạt ló ra. Dưới trăng có thể nhìn thấy đảo Magaki như ngay bên cạnh. Đám ngư dân đang chèo những chiếc thuyền gỗ nhỏ vào bờ, và nghe lao xao giọng nói của họ lúc chia nhau mẻ lưới. Khi ấy tôi hiểu ra cái gì đã nảy trong tâm trí một nhà thơ khi viết: "Âm thanh sầu muộn của dây neo".
Đêm hôm ấy chúng tôi nghe thấy một ông sư mù chơi đàn và hát một bài hát kể chuyện khác biệt với xứ Bắc này. Nó không giống "khúc ba-lát những chiến binh Heike", cũng chẳng như một khúc ba-lát nhảy múa. Nó mang âm hưởng đồng quê và phải hát bằng một giọng khoẻ, âm lượng lớn. Tiếng hát ấy gần chỗ chúng tôi nằm ngủ nên hơi ồn ào. Dù sao tôi cũng không thể không tự hỏi rằng những bản ba-lát thơ cổ đến thế sao vẫn được hát ở đây, miền đất xa xôi này.

Shiogama
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi viếng thăm Đền thờ Shiogama. Người xây dựng ngôi đền là Masamune, quí tộc vùng Data, khi ông là quan đứng đầu tỉnh này. Những cây cột gỗ thông tuyệt diệu có chu vi thực kì vĩ, những xà kèo sơn màu sáng. Ngôi đền nằm trên phiến cao nhất của dãy bậc thang đá dài, xung quanh là hàng rào sơn son rực rỡ trong ánh nắng ban mai. Tôi nghĩ, trên mảnh đất của chúng tôi ngôi đền mới đẹp làm sao, thậm chí ở một nơi xa xôi và ít kẻ qua lại như chốn này. Quyền năng thánh thần thực có mặt muôn nơi.
Phía trước Miếu Shinto có một cái đèn lồng bằng đá cổ. Trên cánh cửa đèn bằng kim loại có hàng chữ: Izumi-No-Saburo, năm thứ ba niên hiệu Bunji (1187) cúng tặng". Tôi nghĩ, đã năm trăm năm rồi, Saburo của Izumi, người đạo hạnh dũng cảm, chính trực, trung nghĩa và hiếu tận với cha mẹ. Ngày nay không ai không kính trọng cái tên đầy vinh quang này. Nó thực sự như lời nhắn nhủ: "Ai đi đường thẳng, thành thực với những gì mình cho là phải, danh dự sẽ đến ngay".

Matsushima
Trời gần trưa, chúng tôi thuê một con thuyền và bắt đầu chèo về phía những hòn đảo phủ đầy thông của Matsushima. Đi khoảng năm trăm dặm trên mặt nước, cuối cùng chúng tôi đặt chân lên bờ đảo Ojima.
Tuy đã được nghe nói đến nhiều lần, nhưng quả thật Matsushima là nơi đẹp nhất trên toàn Nhật Bản. Nó thực đáng sánh với hồ Động Đình và hồ Tây bên Trung Hoa.
Vô vàn những hòn đảo, vài hòn cao như những ngón tay hướng thẳng lên trời, vài hòn khác lại nằm úp sấp trên những con sóng, lại có vài hòn tụ lại thành những chùm hai, chùm ba, đâm nhánh sang trái, duỗi dài sang phải, vài hòn như cõng những đứa bé sơ sinh trên lưng hay ôm ghì trước ngực tựa cha mẹ hay ông bà.
Rừng thông ngút ngàn và xanh thẫm. Lá cành rạp xuống vì những cơn gió biển mang hơi muối tạo thành những hình dáng tự nhiên thanh nhã. Chúng duyên dáng cúi chào như một tố nữ mà vẻ khéo léo vẽ nên một bức tĩnh vật còn yêu kiều hơn.
Có phải những hòn đảo này được Vị thần Chúa tể núi đồi sáng tạo ra trong kỷ nguyên xa xưa của các thần? À, ai có thể đánh giá công bằng nét bút Ngài đưa trên những kiệt tác linh thiêng phi phàm của Đấng Chúa tể Hoàn vũ, hoặc dám mô tả nó cho xứng đáng trong ngôn từ!
Ojima, tức Hòn Trống, với dải bờ đâm ra phía biển, nhưng trên thực tế lại nối với đất liền. Ở đó chúng tôi nhìn thấy nơi Thiền sư Ungo sống cuộc đời ẩn khuất và phiến đá ông thường ngồi trầm tư. Trong rừng thông, chúng tôi thường bắt gặp những chốn khuất nẻo, nơi một ai đó sống xa lìa thế gian. Vẻ bình an và thanh tĩnh của một tu viện như thế, với làn khói bốc lên từ lá thông, quả thông lẩn lướt nơi mái lều đã cuốn hút chúng tôi đến độ gợi lại được hình ảnh người chủ nhân của tu viện, dù chúng tôi chẳng hề biết ông. Lúc đứng đó, mặt trăng đã ló ra và ánh vàng lấp lánh trên mặt nước khiến vạn vật thực khác biệt so với cảnh đẹp ban ngày.
Quay lại bờ biển Matsushima, chúng tôi thuê một quán trọ có sân thượng và cửa sổ mở ra phía biển. Thao thức suốt đêm đó, "một đêm với gió và mây trời", với vẻ diễm lệ của thiên nhiên xung quanh đã mang lại một cảm giác tinh tế đặc biệt:
Đến những đảo thông,
Bạn cần đôi cánh hạc
Ơi loài cúc cu bé nhỏ!
Sora đã viết những vần thơ trên. Tôi không viết và cố gắng chợp mắt, nhưng không nổi. Khi tôi rời cái am cũ của mình, Sodo có viết một bài thơ chữ Hán về Matsushima, và Hara-Anteki viết một bài waka có đoạn: "Những đảo thông phủ kín bờ". Tôi lấy chúng ra khỏi túi cho có bạn bè. Tôi cũng có vài bài Hokku của Sampu và Jokushi tặng.

Zuigan-ji
Ngày 11/5 Âm lịch (28/6) chúng tôi tới thăm Zuigan-ji. Tu viện trưởng hiện nay là vị thứ 32 kể từ khi Heishiro của Makabe xây dựng ngôi đền sau lần ông trở về từ Trung Hoa.
Sau đó, ngôi đền được xây hoàn chỉnh để tưởng nhớ đến đạo hạnh vĩ đại của Thiền sư Ungo. Với những bức tường ken lá vàng và đồ thờ lộng lẫy, ngôi đền sáng lên trong nắng như chính cõi Thiên vậy.
Nhưng còn một nơi tôi muốn tới xem là ngôi đền nhỏ của Thánh Kembutsu.

Ishi-No-Maki
Ngày 12/5 Âm lịch (29/6) chúng tôi rời đi Hiraizumi theo một con đường qua nhiều địa danh đã được nghe nói trong các bài thơ, như Aneha-No-Matsu (Cây thông chị cả) và Odoe-Bashi (Cầu dây da). Nhưng lối đi này hình như chỉ các tay thợ săn và dân đốn gỗ mới thông thạo. Chẳng biết mình đang ở đâu nữa, chúng tôi lạc đường và cuối cùng tới một thị trấn cảng tên là Ishi-No-Maki.
Phía xa xa qua bờ nước, có thể nhìn thấy hòn đảo Kinkazan. Chính vì vẻ vô tận của hòn đảo "nơi những đoá hoa vàng nở rộ", một nhà thơ đã có lần ca tụng nó như một vị Hoàng đế. Hàng trăm con thuyền đậu nơi bến cảng, còn trên bờ nhà cửa chen chít, từ những căn bếp khói bốc lên.
Thế đấy, chỉ tình cờ chúng tôi đã đến đó! Chúng tôi tìm một chỗ để ở lại, nhưng không hề thấy một quán trọ nào. Cuối cùng, quyết định nghỉ đêm ở một ngôi nhà tranh nhỏ, xuềnh xoàng trong làng. Và ngay khi trời sáng chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên con đường xa lạ. Luôn luôn bị lạc lối.
Vượt qua nhiều vùng đất, với chúng tôi đã nổi tiếng qua thơ như khúc cạn Sode, cánh đồng Obuchi, đồng hoang Mano, con đường theo một con đê trải dài như vô tận. Trái tim nôn nao khó tả, chúng tôi đi vòng qua một đầm lầy dài, hẹp và nghỉ đêm ở một nơi có tên Toima. Rốt cục thì cũng tới Hiraizumi vào ngày hôm sau. Chắc chắn chúng tôi đã phải đi vòng mất năm mươi dặm.

Hiraizumi
Niềm vinh quang ba thế hệ của Fujiwaras giờ đây chỉ còn là một giấc mơ thoảng qua. Chúng tôi chạm mặt với những đổ nát của Cánh cổng lớn khi còn hai dặm rưỡi nữa mới đến trang trại của Hidehira. Nơi này giờ đây chỉ còn mênh mang cánh đồng lúa và bãi hoang. Chẳng còn gì ngoài Kinkezan – hay "Đồi lông gà vàng" – nơi từng là một phần của những khu vườn cảnh tuyệt mỹ. Chúng tôi trèo lên Takadaki – hay Pháo đài thượng của Yoshitsune, và nhìn xuống phía dưới, nơi dòng sông lớn Kitagami bắt nguồn từ đỉnh Nambu chảy qua. Một hợp lưu, sông Koromo lượn quanh lâu đài Izumi rồi đổ vào sông Kitagami ngay dưới chân pháo đài. Đồn trấn của Yasuhira đứng phía sau chiến luỹ Koromo ở một ví trí chiến lược bảo vệ cho cửa ngõ tỉnh Nambu, ngăn chặn những chiến binh của bộ tộc Ainu tràn xuống từ phương bắc.
Nhưng niềm vinh quang của chiến cuộc mới phù du làm sao. Lớp người trung kiên ưu tú giữ đất, những kẻ đã tử thủ ở đây, trên Pháp đài thượng này, đã chiến đấu đến tuyệt vọng, chiến công hiển hách của họ chẳng dài lâu hơn một lần chớp mắt. Giờ đây, nơi này cỏ đã ngút xanh. Nhà thơ Đỗ Phủ xứ Trung Hoa mới chí lý làm sao:
Dù một quốc gia có bại vong
Sông và núi vẫn còn
Và trên thành trì đổ nát
Xuân sang cỏ lại xanh
Chúng tôi ngồi xuống những chiếc mũ rơm và khóc, mặc cho thời gian trôi đi.
Một trời cỏ xanh mùa hạ
Có phải kì tích những chiến sĩ oai hùng
Chỉ là giấc mơ qua?
Những làn trắng tuyết hoa
Gợi nhớ mái tóc bạc Kanefusa
Người chiến binh già gan dạ
(Sora)
Hai viện chính của Chuzon-Ji, đã nhiều năm tôi có nghe nói về chúng với một nỗi băn khoăn, giờ đều đang mở cửa. Trong Viện kinh sách của ngôi đền có những bức tượng của ba vị tướng quân. Còn trong Viện ánh sáng, những chiếc quan tài của họ được cất giữ, trang trọng linh thiêng cùng những bức tượng Phật – tín ngưỡng của họ.
Đồ sứ trang trí cho Viện ánh sáng đã tứ tán từ lâu rồi thất lạc, những cánh cửa khảm ngọc nong ra vì gió, những thếp vàng trên cột bị sương muối và tuyết phá huỷ, rồi bản thân ngôi viện cũng như đã thành một đống gạch vụn giữa một bãi hoang trùm cỏ, nó không còn được bao che bằng những bức tường mới ở bốn phía và mái lợp ngói nhằm chống lại sức tàn phá của đất nước gió lửa. Thế nhưng nó có thể vẫn tồn tại một thời gian dài như ký ức của ngàn năm trước.
Hết thảy những ngày mưa tháng sáu
Chừa ra, không chạm vào Viện ánh sáng
Trong tuyệt mỹ, vẫn huy hoàng.

Shitomae-No-Seki hay nơi vượt nước
Con đường đi Nambu tiếp tục, mời gọi bước chân tiến xa hơn nữa về phía bắc, nhưng chúng tôi dằn lòng quay lại và theo lối cũ trở về làng Iwate, nơi sẽ nghỉ đêm. Ngày hôm sau, vượt qua Oguro-Zaki hay Mũi đất đen nhỏ và Mizu-No-Ojima hay đảo nhỏ giữa dòng, các địa danh này như tài sản của thơ, chúng tôi tới nơi Vượt nước. Lúc phu nhân của Tướng quân Yoshitsune cùng chồng rút khỏi miền bắc, bà đã sinh hạ một đứa trẻ. Và đây là nơi lần đầu tiên đứa bé ấy vượt qua dòng nước. Chúng tôi qua lối suối nước nóng ở Naruko, nghĩa là đứa trẻ khóc.
Chúng tôi dự tính vượt qua dãy núi tiến vào tỉnh Dewa. Con đường ấy rất ít khách du lịch nên lính gác nhìn chúng tôi nghi ngờ, nhưng cuối cùng họ vẫn để cho đi.
Đêm ập xuống bủa vây trên núi. Thế nhưng chúng tôi tìm được ngôi nhà của người lính trấn biên ải và xin tá túc. Một cơn bão cầm chân chúng tôi ở đó ba ngày, và nơi ở lại trên núi ấy thực kinh khủng.
Bọ chét, chấy rận như sung
Tôi nghe vó ngựa đạp nước
Phía đầu giường, trong bóng đêm.
Natagiri – hay lối qua khe lưỡi cày
Theo người chủ nhà, muốn tới tỉnh Dewa phải vượt qua dãy núi cao. Vì đường khó đi nên ông ta gợi ý nên thuê một người hướng đạo. "Chúng tôi sẽ làm việc ấy" – chúng tôi nói, đồng tình với lời đề nghị của ông ta.
Người hướng đạo là một thanh niên có thân hình vạm vỡ. Anh ta đeo một lưỡi dao găm cong nơi thắt lưng và một cây gậy gỗ sồi dẫn chúng tôi lên đường. "Đây chính là cái ngày chắc chắn mình sẽ gặp bất hạnh đây", tôi nặng nề tự nhủ và đi theo anh ta.
Đúng như lời người chủ nhà thông báo, dãy núi quả là cao. Trên núi, rừng mọc rậm rạp đến nỗi không thể nghe thấy bất cứ một tiếng chim hót nào. Phía trên đầu, cành lá ken dày đến mức chúng tôi như đang đi du hành trong cõi chết của đêm tối. Tôi nghĩ về những câu thơ của Đỗ Phủ:
Ngọn gió xé rách những đụn mây
Vầng dương tối mờ lầm bụi.
Con đường xuyên qua những bụi cỏ tre dày, lội qua những con suối và trượt ngã trên đá, mồ hôi lạnh luôn túa ra khắp người. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được quận Mogami.
Chặng đường này luôn có bất trắc xảy ra, người hướng đạo thở phào nói khi từ biệt. Tôi quả là may mắn mới đưa được các ngài đi qua một cách an toàn.
Nghe nói vậy, thậm chí sau khi tất cả đã kết thúc, tim tôi vẫn đập liên hồi.


Obanazawa hay thung lũng đồng cỏ
Ở Obanazawa chúng tôi gặp một người đàn ông tên là Seifu. Dù giàu có, ông không phải hạng người thô lỗ, đầu óc tầm thường. Ông thường lên Kyoto và hiểu biết thu tiêu dao. Vì thế ông nài chúng tôi ở lại vài ngày nghỉ ngơi sau chuyến đi dài. Ông đã cho chúng tôi thấy tất cả lòng mến khách của mình.
Làn gió mát mùa hè!
Nơi đây như ở nhà
Nghỉ ngơi, thư thái
Hãy nhảy ra đi!
Hãy bò ra từ dưới cũi ươm tằm
Ơi, cóc hiền đang ộp oạp đâu đó
Nét kẻ lông mày thiếu phụ
Hiện lên trong đầu
Khi tôi nhìn hoa rum nở.
Bộ trang phục cổ xưa
Qua bao thế kỉ
Người làm tơ tằm vẫn mang!
(Sora)


Ngôi đền trên đỉnh đồi
Trên vùng đất của Yamagata, có một ngôi đền nơi đỉnh đồi với tên gọi Ryushaku-Ji. Ngôi đền được Đại tu viện trưởng Jikaku dựng năm 860. Nó nằm trên một khu đất đặc biệt thanh sạch và yên tĩnh. Nhiều người nói nên đến tham quan, vì thế cho dù phải đi chừng mười bảy dặm, chúng tôi vẫn quay lại từ Obanazawa.
Trời vẫn còn sáng nên sau khi thuê nhà trọ dành cho khách hành hương, chúng tôi leo lên Ngôi đền trên đỉnh đồi. Ngọn đồi vẫn còn những tảng đá mòn bóng khổng lồ, tảng này chồng lên tảng kia, và cạnh chúng những cây thông, cây bách cổ thụ xum suê. Mặt đất và đá cổ xưa xanh màu xanh cỏ mượt như nhung.
Cổng vào những nơi thiêng liêng đóng chặt. Và chúng tôi không nghe thấy một tiếng động nào. Nhưng đi lách lên quanh mỏm đá và trườn trên đá phiến, cuối cùng chúng tôi vẫn đọc được bài kinh cầu của mình trước Tam bảo.
Ở nơi thanh tĩnh thẳm sâu và đẹp đẽ này, tự trái tim cảm thấy trong sạch tận nguồn cội.
Nơi im lặng thẳm sâu
Vẳng qua muôn trùng đá
Tiếng ve sầu.


Oishida hay bãi đá lớn
Vì muốn xuôi dòng sông Mogami trên một chiếc thuyền, nên chúng tôi phải dừng bước vài ngày chờ thời tiết đẹp ở một nơi tên là Oishida.
Hạt giống của thể thơ cổ Haikai đã một lần được gieo ở đây và mọi người vẫn luyện tập làm kiểu thơ này với tình yêu và nỗi niềm không thể quên những ngày rực rỡ của thể thơ đó. Tài thơ của họ mộc mạc như thanh âm cây sáo sậy. Và trên con đường thi ca, họ ngập ngừng bước đi, băn khoăn nơi ngã ba đường, chẳng biết chọn lối nào, cũ hay mới. Họ cần một ai đó hướng dẫn. Vì vậy tôi để lại cho họ một tập thơ.
Ôi, ai nghĩ được với chuyến hành hương tìm thi hứng này của riêng tôi, tôi lại truyền được ra ngoài kiểu thơ Basho!

Sông Mogami
Sông Mogami chảy từ cao nguyên miền bắc xa xôi. Ở đây, tại Yamagata có những khúc sông cao hơn nên ghềnh thác cực kì nguy hiểm. Ví như "Đá trôi" là nơi những tảng đá nằm rải rác như những quân màu đen trên cái bàn tính khổng lồ, và "Chim ưng du hành", nơi nước chảy phăng phăng như cuộc rượt đuổi của loài ưng. Sông chảy qua phía bắc núi Itajiki, ngọn núi đã được nhắc đến trong một bài thơ cổ, rồi cuối cùng đổ ra biển ở Sakata.
Đường đi xuống sông nằm giữa hai dãy núi và xuyên qua những tán cây. Con thuyền của chúng tôi thường dùng để chở gạo, nên rõ ràng tên nó là "Thuyền gạo". Không xa nơi có thể nhìn thấy những tia màu trắng của ngọn thác Shiraito, là ngọn núi Sennin-Do, hay cổng vào núi Thằn lằn nằm lơ lửng bên mép nước. Dòng sông căng mọng vì mưa và chuyến đi đầy bất trắc.
Muôn nơi dồn về
Hết thảy mưa tháng sáu
Cuồn cuộn Mogami!

Haguro-Yama
Ngày 3/6 Âm lịch (19/7) chúng tôi leo lên nơi ẩn dật của các vị tu khổ hạnh trên núi Haguro-Yama (núi Hắc vũ). Ở đó tôi gặp một học trò của mình tên là Zushi-Sakichi. Anh ta giới thiệu chúng tôi với vị Đại tăng lữ Ekaku của vùng Acalya. Vị này mời chúng tôi nghỉ lại một ngôi đền ở Minami-Dani (Thung lũng phía nam) và tỏ ra rất nhân từ, hiếu khách.
Vào ngày mồng 4 có một buổi tiệc thơ ở Ngôi đền chính.
Khi gió nổi sang hè
Nơi lũng Nam thiêng liêng
Mang hơi tuyết mát lành.
Ngày 5/6 Âm lịch (21/7) chúng tôi tới thăm miếu Gongen, nơi thiêng liêng đầu tiên được xây dựng trên núi Haguro. Khi thánh Nojo, người sáng lập ra nơi này còn tại thế, nó chẳng có tiếng tăm gì, nhưng trong cuốn sách Lễ kỉ niệm Enji-thế kỉ thứ 10 có nhắc đến một ngôi miếu ở U-Shu-Sato-Yama, tức là Núi Thôn dã tỉnh Vũ. Có lẽ ai đó đã lầm khi viết từ "Thôn dã" thay vào chỗ của từ "Hắc".
Và điều ấy làm tôi băn khoăn không biết Haguro-Yama tên nguyên thuỷ có phải là núi Hắc tỉnh Vũ không, và từ "tỉnh" bị bỏ sót nên tạo thành Núi Hắc vũ ! Rõ ràng tỉnh này có tên Dewa - "Nộp lông vũ", bởi vì trong sách địa chí chính thức năm 713, lông vũ của tỉnh này được qui định như một vật triều cống. Haguro-Yama, cùng với Gassan (núi Mặt trăng) và Yudono-Yama (núi Tắm gội) tạo ra Dewa-Sazan, tức "Ba ngọn núi thiêng của Dewa".
Ngôi đền trên núi Haguro chịu sự cai quản của Kanei-Ji, một ngôi đền trên đồi Toei ở Edo. Cả hai cùng một giáo phái Phật giáo. Học thuyết của giáo phái này gồm Shikan (xua đuổi những suy nghĩ thế tục và nhận thức chân lý) trong sáng và rực rỡ như mặt trăng đêm rằm, gồm Endo-Yuzu (đạt đến hoàn thiện và hài hoà thông qua việc tuân thủ giáo lý Phật giáo một cách đều đặn và kiên trì) sáng chói như chính ánh sáng.
Các tu viện đứng bên nhau lớp lớp, nơi các vị tu khổ hạnh miệt mài thực hành giáo lý. Suối nguồn tốt đẹp từ quả đồi linh thiêng này quả là kì diệu nhất và truyền đi một nỗi kính sợ. Đây thực là một nơi phi phàm và chắc chắn sẽ hưng thịnh mãi mãi.


Núi mặt trăng và Núi tắm gội
Ngày 8/6 Âm lịch (24/7) chúng tôi đi lên Gassan, tức núi Mặt trăng. Mang theo một chuỗi hạt giấy màu dâu chín để xua đuổi sự không thanh sạch và đội những cái mũ vải bông tẩy trắng, chúng tôi theo sau một người hướng đạo có biệt hiệu "người mạnh mẽ". Phải leo mười chín dặm xuyên qua mây mù, và sương, băng qua băng và tuyết cho đến khi dường như chính mình cũng sẻ chia con đường đi của mặt trời và mặt trăng vậy!
Lên tới đỉnh, chúng tôi hoàn toàn cóng lạnh và thở không ra hơi. Mặt trời đã lặn, mặt trăng ló ra. Chúng tôi tự mình kết một ổ cỏ tre, lấy hai cành tre nhỏ làm gối và nằm xuống chờ bình minh.
Cuối cùng mặt trời mọc, xua tan những đám mây. Chúng tôi bắt đầu đi xuống về phía Yudona-Yama, tức núi Tắm gội.
Lúc tới gần thung lũng, chúng tôi đi ngang qua một túp lều mà trước đây là lò rèn. Một người thợ rèn kiếm tỉnh Dewa thế kỉ 12 đã chọn chỗ này vì có loại nước tôi thép rất kỳ lạ. Sau khi tắm gội thanh sạch cả thân thể và tâm trí với cách sống kiêng khem, người nghệ nhân này rèn những thanh kiếm có khắc dòng chữ Gassan và nó trở nên có giá trị cao trên toàn vương quốc.
Tôi nghĩ đến những thanh kiếm khác được tôi ở Long Khê bên Trung Hoa và loại kiếm của Kanchiang cùng người vợ ông là Muyeh. Tôi nhận thấy để vượt lên trong bất cứ loại công việc gì, cần phải nỗ lực nhiều hơn rất nhiều mức bình thường.
Lúc ngồi xuống một tảng đá nghỉ ngơi, tôi nhận thấy có một cây anh đào nhỏ mọc kề bên. Cội cây chẳng cao hơn mét rưỡi, và nửa mình trổ hoa. Cứ nghĩ về cây anh đào muộn mằn đáng yêu này mà xem! Nó bị vùi sâu trong tuyết lạnh suốt mùa đông mà vẫn không quên nở hoa lúc xuân về trên những ngọn núi. Ở đây, cây mọc, ngát hương như một công án thiền: "Hoa mận nở trong vầng dương rực nắng". Nó gợi cho tôi nhớ về thơ của Gyoson:
Anh đào dại đáng thương!
Trừ tôi, chẳng có ai yêu bạn
Và chẳng có ai ngoài bạn, yêu tôi!
Ở đây, cảnh tượng những bông hoa này nở trên núi khiến tôi còn cảm động hơn thế. Và lúc này tôi đành gác bút, vì những gì tôi thấy ở Núi mặt trăng, theo một luật lệ dành cho người hành hương lên núi, cấm không được viết ra.
Lúc quay trở lại ngôi nhà trọ trong đền Thung lũng phía nam, Ekuka vùng Acalya có hỏi về ấn tượng thơ ca của tôi trong chuyến hành hương tới Ba ngọn núi thiêng. Và tôi viết tặng ông mấy bài:
Trăng lưỡi liềm lạnh
Nhợt nhạt trên tầng lá đen
Núi Haguro!
Có bao nhiêu hình mây núi
Quấn vào đỉnh Gassan
Trước lúc trăng lên?
Vì không thể
Kể những diệu huyền núi Yudono
Đành ứa lệ, rơi trên tay áo.
Còn Sora viết :
Những đồng xu làm rung chuyển tim tôi
Trên đường núi Yudono
Những người hành hương ngoan đạo rải đó đây!


Sakata
Sau khi rời núi Haguro, chúng tôi tới thành Tsuru-Ga-Oka (Đồi hạc) theo lời mời của một Samurai tên là Nagayama-Ujishige. Tại nhà người này, chúng tôi soạn một tập gồm 36 bài thơ liên hoàn. Người môn đệ của tôi Zushi-Sakichi cũng có mặt ở đó. Anh ta theo chúng tôi ra đi từ núi Haguro. Tiếp theo chúng tôi xuôi thuyền xuống một hải cảng tên là Sakata. Ở đây, chúng tôi nghỉ lại ở nhà một thầy thuốc tên là Enan-Fugyoku.
Xa lắm những ngọn đồi suối nóng
Muôn nẻo đường về bên Bờ gió
Cảnh đêm lành lạnh!
Dòng Mogami
Đánh chìm mặt trời hè nóng bỏng
Và nhận xuống đại dương!

(còn tiếp)