Rũ bụi gia phả
Bình pha lê nghiêng rượu
liệm đêm tàn
Đèn nhang 1
Ông già thả gậy
Ông già thả gậy
Bắc cầu phao vượt bến
Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều
Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử
Áo Hai Bà dăng mắc
Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương
Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân
Cụ tổ mười lăm đời
Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng
nhận gươm phương bắc chém
Cụ tổ mười đời
Lăn đá Chi Lăng
Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện
Gõ ba hồi trống
Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng
Cụ tổ chín đời
Mở trang Bình Ngô Đại Cáo
Nơi thôn xa ba chén chúc mừng
Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng
Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông
Ông tổ năm đời
Cáo quan dưỡng bệnh
Tóc trắng bồng bênh trước án
Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay
Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp
Dở khóc dở cười
Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng
Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc
Hũ rượu hoàng hoa
Hịch bốn trấn
Xé trang Luận Ngữ
Lau gươm
Lên đường
Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân
Kéo quân về cửa khuyết
Hỏi tội nghịch thần
Mắt Chúa đảo thiên
Kéo áo che ngai
Né mũi kiếm vô hình xốc tới
Phanh hầm nhét vội một vầng dương
Cắn nhọn móng tay
Thơ cùm lim khắc máu
Chợt nghe tin giặc dữ
Lấp sông san núi ùa sang
Vùng chặt xích bẻ gông
Phá cửa
Cướp ngựa Hình Tham tri
Phóng lên ải bắc
Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban
Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua
Đèn nhang 2
Dó lụa lật trang
Sang chữ triện quan tài
Bóng người cô ruột
Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi
Sông trôi xa còn ngoái về
Xem gót chân uyển chuyển
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc
Dịch sườn thông sang xúm xít
Quanh hàng mi
Nắng đọng hồ trong
Một sớm đi làm vương hậu
Cười rũ cỏ hoa
Rè tiếng trống chấp đòn khênh
Xà tích dấu đưa em
Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc
Nhìn mây về ngọn cau
Mái rạ thiu thiu
Đi
Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy
Níu cuộng lá vàng qua trận bom
Phân kim hạ kiệu
Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân
Mấy chục nguyên tiêu
Thời trân thưa thớt
Cơn trái nắng kén gì
Đúng lúc quả đào rơi
Vua băng hà
Đời hậu tắt sao băng
Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng
Chẳng dứt
Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa
Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh
Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch
Hồn ma đế bá cũng lang thang
Đói khát tình thương
Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống
Đêm doang tay
Mời vương hậu
Ngủ chung giường
Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang
Bàn tay quấn tóc khô
Che mặt
Về quê
Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy
Ngựa 1
Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên
Cắt thịt chia da
Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng
Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ
Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam
Dù gục khóc dưới chân thành
Đã mất giải khăn đào hứng lệ
Người đổi kiếp ra mô đất xám
Đắp thêm cho vững mái lầu hoa
Chiều nổi cung đàn phỉ thúy
Thong dong
Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân
Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp
San bằng đồi núi lô nhô
Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc
Tiếng hí dài
Ba lần triều đại đổi ngôi
Khoét thủng sáu lần nhung phục
Đập rập tám lọng vàng đô đốc
Cha truyền con nối
Đã xơ lơ
Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi
Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út
Bờm lông còn ướt
Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu
Nếp nếp áo chầu
Ngã rạp
Chiến thư
Dùng dắng
Tử sinh
Ai gặp lúc tuổi măng háu đá
Óc ngu phu giám mã
Chạm yên
Đau rức xương hông
Quằm gót
Thốc ngang sườn quật thây tổng quản
Hỏng rồi
Chiến trường không dụng
Đeo thẻ bài nhà Chúa
Ngẩn ngơ gặm cỏ
Quanh quanh cửa bắc cửa đông
Nhìn tít mù xa khanh tướng
Cờ bay bụi lốc
Nghe tin về lái ngựa quận công
Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ
Tiếng hí khải hoàn chìm lịm
Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn
Xương vụn kéo lên gò đống
Cháu bốn đời vỗ mả áp tai
Nghe tràng đạc rộn hoang vu
Còn thoảng khét mồ hôi
Ngày huyết chiến năm Thân
Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu
Đổ xuống bủng beo da thị rụng
Ngựa 2
Có một thời
Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ
Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi
Đàn lính ngựa vua nuôi
Bỗng lừ đôi mắt mỏi
Phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn
Đường nắng bay từng đám hoả hoàng
San sát rừng gươm
Gia Bình Bạch Hạc
Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc
Trước mặt cào cào rộn cánh
Tốc xiêm y trăm sắc cung tần
Trên lưng nắng hạn xém yên cương
Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình
Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến
Giặc cuồng vắt chân tháo chạy
Đầu lâu lăn lóc vó
Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy
Tít tắp
Từ Tiên Yên Hà Cối
Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh
Cũng từ thuở ấy
Cô gái quê thả tấm khăn điều
Bay nối đường tre liền ngọn thác
Bạc phau đổ xuống tự vòm mây
Mắt ướt môi se không nức nở
Răng đen rưng rức
Nghiến oán thù tím ngắt
Nắng Phong Châu
Cũng từ thuở ấy
Lính - ngựa vua nuôi gọi lính - người
Hội vật
Trống lớn Giảng Võ đường
Đội bổng vòm trời cao vót
Gió thượng du dội lại
Mưa trung du thốc sang
Bão hạ du dồn vang
Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu
Cong mái đỏ quanh thành
Kỳ xí đêm qua ủ gió
Sớm nay thả hết về nam
Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang
Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ
Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát
Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ
Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn
Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng
Vua kén người giỏi tiên phong
Vật núi núi lăn
Ngáng sông sông gãy
Gái thường dân Kinh Bắc
Tìm ai đây giỏi phận làm chồng
Hai tay căng sợi chỉ
Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ
Các ngả đường bụi đùn lốc nổi
Thác người đổ qua cửa ngọ
Cờ xua hết mây đi
Toà biếc lắng xem
Trống vẫn thúc
Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng
Loa vẫn rải
Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng
Chiêng lê thê sông Nhị
Dăng dài bãi mía bờ khoai đi
Một khắc cờ im gió đợi
Trai đô ùn đọng ngã tư thành
Ai từng buôn ngược bán xuôi
Chiều hoang rừng xế gặp hùm
Liều thân cứu mạng
Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi
Ai xuống bể mò ngọc trai
Tặng người yêu dấu
Né đuôi cá mập
Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn
Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống
Giỏi khoa vặn chệch hàm răng
Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây
Giỏi môn vặn cổ
Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử
Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương
Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô
Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa
ại kìa ai quen trộm gà bà thím
Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân
Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc
Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”
Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già
Loa càng dóng dả
Võ nghệ mười phương
Hồi hộp bắc đồng cân
Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất
Nhiễu xanh vắt hông
Cử vạc ba trăm cân
Nước đầy
Không sóng sánh
Rồi Bá Ngạc Tiên Du
Tư Đang Yên Dũng
Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà
Nghiêng mình thi lễ
Mắt trầm tư ngó vội khảo đài
Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay
Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong
Gạt dóng tre ngà
Cầm tấm mía nhai ròn
Thổi bã ngất trời bụi trắng
Đến Ba Ngư Siêu Loại
Trề môi khinh vạc lớn
Đứng tấn đại bàng
Lay voi đá cửa dinh
Nhấc bổng
Diễu hai vòng bãi rộng
Phong ba động biển reo hò
Gái nhà quan bố nuông
Cho giữ dịp
Bỗng để rơi dùi trống
Nín hơi nghe rần rật
Bão liên hồi
Trong búp lá măng tơ
Hồi cồng buông trấn lệnh
Từng đôi vào
Sư tử vờn quanh
Lên điệu "Bạch hầu đoạt trái"
Sang điệu "Hồng hạc tề phi"
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó
Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu
Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời
Nhiễu đỏ bên trái lên
Nhiễu xanh bên phải xuống
Nhoè bụi cuốn
Cột đồng dựng
Núi đá mọc
Ngón chân cày đất ba gang
Vạt cỏ đuôi gà bật rễ
Đất võ đài nhô lên lõm xuống
Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền
Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc
Vảy tê tê gạt gió
Xô về xem cuộc giao phong
Đã vào trận léo tay tư
Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm
Ối thôi
Bá Ngạc cắn môi vít gót
Bảy Kình nhắm mắt xuống bò
Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm
Tổng Dong nghiến răng ken két
Giật ngang mạng mỡ
Tử sinh là lúc này đây
Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng
Cồng chiêng thoi thóp
Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng
Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy
Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt
Mồ hôi người máu nến
Rụng song song
Rạng đông
Người toàn thắng bước ra
Ức vạn người xem khiếp sợ
Cuộc tàn tản mác cát lòng sông
Đô nhất là ai
Quê vùng đâu đó
Vươn tay chạm giời
Tóc hất sao mai
Quỳ xuống
Vọng về cửa khuyết
Lạy hai lạy
Lưng vàng rạp cỏ
Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi
Kén được một người
Nụ cười chếch đôi mắt lạ
Vồn vã đếnThong dong thua
Rồi lửng lơ đi
Vua kén đủ mười hai đô uý
Triệu về kinh ban yến năm đêm
Giọt rượu hồng hoen bố tử
Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ
Một lời khảng khái tung hô
Mai sớm kéo quân đi
Nghìn dặm lấn thành xa
Khúc quân thiều còn múa lượn
Vành tai sương cóng
Chiều tím bặt sa trường màu giun chết
Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa
Phơi mồi quạ xúm đen ngòm
Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa
Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa
Đêm vàng Kinh Bắc
Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu
Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung
Lính thú
Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ
Mười lần khấn gửi nước về xuôi
Lính thú đèo Mây
Vươn tay chém nứa
Xọc ngang sườn
Gục bên khe Vân tuyền nước đọng
Rừng khô thoảng động gót chân người
Quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây
Cô hàng xóm cũ ở riêng
Lạt cánh sen buộc nem lá chuối
cũng gửi quà xưa hội tháng giêng
Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông
Đòn gánh đã theo củi giạt
Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi
Cụm tóc lá sung lạt mở
Bến về nghe sợi đập làng xanh
Thôn cũ
Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng
Cung quăng đo thân cau
Vại nước lưng chừng
Đuôi nắng quệt ngang cành ớt
Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét