28 thg 1, 2009

Về Kinh Bắc (Nhịp 6)


Nhịp sáu
Điểm trang

Những hội hè Kinh Bắc
Có thi nhau giật giải pháo toàn hồng

Thi sợi bún
Thi sợi bún
Khi quất
Quấn năm vòng cột đình
Không đứt
Giã bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
Đứt quãng hoa niên
Mai về lại dựng giường dựng chiếu
Lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp
Ơi đêm Đông Hồ
Nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan

Thi ăn mía thổi cơm
Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên
Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
Lồng khói tím
Lịm sang thu
Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa

Thi đánh đu
Luồn tay ôm say
Giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh

Thi hát đúm
Chiếc pháo xì loay hoay
Thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
Bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
Bến nhức gan tằm
Người bỏ chồng vào thi hát đúm
Chệnh choạng lối mưa
Nón quai thao úp bụng
Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
Gót chân bùn ngõ tối
Tuổi lội Tầy đường mới sống trâu
Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu

Thi dệt vải
Lòng Em phau phau
Tìm đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
Đèn rọi võ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang

Thi thêu gấm
Từ thuở bé biết đâu
Chim uyên chim thúy
Kim se dây mà rẽ thúy chia uyên
Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình
Ai luồn kim giải áo dở dang mơ
Chàng Lưu ứa nước mắt
Bước ra thềm hong mưa

Hội chen Nga Hoàng
Chen Nga Hoàng
Len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
Lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật
Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đình
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi... im lìm
Í ới... sao chìm
Đôi đôi ú tim... tìm
Oà ập... cánh chim... e ấp
Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng
Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh... tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
Gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
Vì tay ải tay ai
Chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
Như sững sờ nghìn tội
Biết lội về đâu
Cho qua cơn thịnh nộ sầu
Cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt
Tóc héo bưng đầu
Lùi lũi tiếc thời xa
Khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu
Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư gãy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi
Sân đình
Lại Thị Mầu í a tung tình
Rung rinh
Chờ...

Hội Gióng
Mùng Tám tháng Tư Không về hội Gióng cũng hư mất đời
(Ca dao)

Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi
Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây

Hội Long Khám
Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô
Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
Gặp ngay quan huyện khác
Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa
Hội vãn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức
Ni cô ơi
Hội Vân Hà
Lợn ba trăm cân
Kềnh xuân lún ngõ
Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương thì
Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối
Cỗ ba tầng
Giò lụa nổi
Giò mỡ chìm
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong
Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
Tìm mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
Sồi lụa thưởng
Mười lợn thi đi chật cổng đình cong
Đêm phường chèo trống giục
Vùi lấp nồi niêu
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo
Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
Vật vờ góc ban thờ
Chai con gậm giường rụt cổ
Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ
Hội tàn men quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau

Hội đền tám vua triều Lý
Hội đền tám-vua-triều-Lý
Còn đau thớ gỗ phượng rồng
Chen chúc khoảng trời thương nhớ
Tạnh thời gian
Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
Để thạch sùng vào bụng rỗng
Chép miệng vàng son ngút khói tan
Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về
Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nhìn trang sử ố
Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham
Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân
Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét